Chương 8: Tiêu Chuẩn Đặc Biệt – Loại Hoang Dã Cập nhật 15/7/2007 Có rất nhiều loại Betta đuôi ngắn hay “hoang dã” (wild type). Ở mở đầu của Chương 6, chúng ta đã định nghĩa loại hay hạng (stock) “hoang dã” bao gồm Hàng Chọi (Fighting Stock) Betta splendens (còn gọi là plakat); các biến thể Betta splendens, Hàng Ruộng (Feral Stock) (ngoài tự nhiên), và sau cùng các loài không-splendens (non-splendens) vốn rất đa dạng. Trọng Tâm của Việc Đánh Giá: Mức độ mà theo đó, các thí ngư thể hiện cá trưởng thành ở tình trạng tốt nhất của “loài” mà nó thuộc về. Mô tả của một số loài được cung cấp trong một xuất bản của Ban Bảo Tồn Loài IBC (IBC Species Maintenance Committee) mà bạn có thể đặt hàng. Sẽ cực kỳ khó khăn trong việc thiết lập các tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá cho một nhóm phân hóa như vậy, và do đó sự chủ quan đáng kể có thể được mong đợi từ phía các trọng tài. Các tên lớp chính thức (xem Chương 10) sẽ chỉ ra “splendens” có hợp lệ trong lớp, hay lớp có chứa cá từ nhiều loài hay không. Khác với hạng mục triển lãm (show stock), chúng thường bị căng thẳng trong lọ; mong đợi sự khó khăn trong việc quan sát. Yêu Cầu Đặc Biệt Mọi hạng mục phải trưng bày theo cặp. Sẽ có hai lớp: Làm Tổ Bọt (Bubblenester) và Ấp Miệng (Mouthbrooder). • Dựa vào mô tả loài được thấy trong tờ rơi (booklet) của Ban Bảo Tồn Loài nếu không chắc về loài của bất kỳ hạng mục nào. • Cá lai bị cấm tham dự vào bất kỳ lớp nào thuộc nhóm này. • Tất cả lọ trưng bày (show bowl) phải dán nhãn, ghi chú “loài” hay biến thể giả định của hạng mục, lấy từ Bản Đăng Ký triển lãm. Tra danh sách Loại cho nhãn thay thế phù hợp. • Mọi hạng mục đều phải cho vào lọ trưng bày đậy nắp vì nhiều con hay nhảy. Câu lạc bộ đăng cai phải cung cấp lọ lớn hơn (1 gallon~4.5 lít) cho loại cá lớn hơn. Đây là để bảo vệ cá, nhưng không phải là lỗi loại nếu lọ không được cung cấp. Hướng Dẫn cho Trọng Tài • Nhìn chung, cá trưởng thành mạnh khỏe, lanh lợi được ưu tiên. • Loại bỏ những thí ngư không được dán nhãn thích hợp, sau khi khẳng định rằng lỗi thuộc về thí sinh chứ không phải ban tổ chức. • Nếu lớp bao gồm chỉ một “loài” hay biến thể của “loại hoang dã”, ưu tiên được trao cho thí ngư vốn tự thể hiện tốt nhất, với cân nhắc thích đáng về những tính trạng hành vi phụ thuộc. • Nếu lớp bao gồm hơn một “loài” hay biến thể, kích thước được xem xét dựa trên kích thước trưởng thành của loài riêng được trưng bày, chứ không so sánh với kích thước thực sự của những loài khác đang được trưng bày. • Betta hoang dã có thể đặc biệt nhạy cảm với nấm nhung (velvet). Hãy kiểm tra cẩn thận nhằm đảm bảo rằng mọi cá thể đều mạnh khỏe. Hệ Thống Phân Loại Màu Sắc Ở chương trước, chúng ta đã sử dụng một cách rộng rãi Hệ Thống Phân Loại Màu Sắc và hàng loạt Hướng Dẫn Lỗi Màu. Hệ Thống Phân Loại Màu Sắc không áp dụng ở đây hay các chương sau, nhưng vì sự liên tục về hình thức, chúng ta sẽ tiếp tục sử dụng các ngành (categorization) và đề mục (headings). Phân Loại Khoa Học của Betta (Danh sách được cung cấp cho IBC bởi SMP) [cập nhật theo Wikipedia]. Lớp (Class): Actinopterygii [Cá Vây Tia] -----Phân lớp (Subclass): Neopterygii [Vây Mới] ----------Phân thứ lớp (Infraclass): Teleostei [Cá Xương Thật] ---------------Bộ (Order): Anabantiformes [Bộ Cá Rô] --------------------Họ (Family): Osphronemidae [Họ Cá Tai Tượng] -------------------------Phân họ (Subfamily): Macropodusinae [Phân Họ Cá Cờ] ------------------------------Chi (Genus): Betta -----------------------------------Loài (Species): (được báo cáo là loài) Nhóm Splendens Nhóm Splendens được chia thành splendens, smaragdina, imbellis, stiktos, sp. Mahachai, sp. Banpeaw. Splendens: Hiện được liệt như là loài lâu đời nhất, điều này có thể thay đổi khi nhiều công trình hơn được thực hiện trên nhóm. Một trích dẫn gốc được phát hiện vào 1878 vì vậy splendens có thể trở thành Betta marchei. Hình Dạng và Hành Vi: Splendens phải cảnh giác và sừng lẫn nhau như cá thuần dưỡng. Cách dễ nhất để phân biệt splendens với những loài khác là các vạch trên nắp mang. Ở splendens, nắp mang chủ yếu là đỏ, một số biến thể địa phương vàng hay gold, không con nào xanh lục hay xanh dương. Để phân biệt splendens với splendens lai, bạn phải so sánh dạng thân. Cá lai có thân mập hơn (stockier). Cá lai có thể có màu “hoang dã” nhưng dạng thân và kích thước có thể khác xa. Lỗi Loại: Nắp mang Xanh Lục hay Xanh Dương, màu hoang dã không chuẩn, kích thước bất cân xứng (disproportionate). Vây dài. Giới Tính: Cá đực điển hình có vây dài và màu sắc nổi bật hơn. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (egg tube) điển hình và tròn hơn ở bụng và phần giữa. Imbellis: Loài phổ biến nhất ở Đông Nam Á. Imbellis lần đầu được mô tả vào 1975. Imbellis nghĩa là hiền lành (không gây hấn) tuy nhiên imbellis có thể hung dữ như splendens và được dùng để đá như mọi thành viên khác thuộc nhóm. Kích thước trưởng thành là 2 inch [~5 cm]. Hành Vi: Imbellis phải cảnh giác và có thể thỉnh thoảng sừng. Imbellis điển hình sẽ có vết đỏ vây hậu môn và lưỡi liềm (crescent) đỏ ở đuôi. Ánh kim phải xanh lục đến xanh dương và nắp mang phải xanh lục hay xanh dương. Imbellis phải mảnh mai hơn splendens, màu nền phải tương tự. Lỗi Loại: Thân mập mạp. Bất kỳ màu nào khác ngoài xanh dương hay xanh lục trên nắp mang. Bất kỳ màu thân nào khác ngoài màu hoang dã chuẩn mực. Giới Tính: Cá đực điển hình có vây dài và màu sắc nổi bật hơn. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (egg tube) điển hình và tròn hơn ở bụng và phần giữa. Smaragdina: Được phát hiện ở vùng Đông Bắc Thái Lan, nó có thể là thành viên lớn nhất thuộc nhóm. Smaragdina hiền hòa, tuy nó có thể hung dữ như splendens, và được dùng để đá như mọi thành viên khác thuộc nhóm. Kích thước trưởng thành là 2 ½ inch [~6 cm]. Hành Vi: Smaragdina phải cảnh giác và có thể thỉnh thoảng sừng. Smaragdina điển hình sẽ có màu nền đỏ với ánh kim xanh lục. Nắp mang thường được phủ bởi ánh kim và smaragdina thường có những đốm đen “hoang dã” trên vây của chúng. Lỗi Loại: Thân mập mạp. Bất kỳ màu nào khác ngoài xanh dương hay xanh lục trên nắp mang. Bất kỳ màu thân nào khác ngoài màu hoang dã chuẩn mực. Giới Tính: Cá đực điển hình có vây dài và màu sắc nổi bật hơn. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (egg tube) điển hình và tròn hơn ở bụng và phần giữa. Mahachai và Banpeaw: Được phát hiện trong các đầm nước lợ xung quanh Bangkok. Những loài này hiền hòa, tuy có thể hung dữ như splendens, và được dùng để đá như mọi thành viên khác thuộc nhóm. Mahachai trưởng thành đạt 2 ½ inch. Banpeaw trưởng thành sẽ từ 2 đến 2 ½ inch. Hành Vi: Các loài phải cảnh giác và phải sừng. Những loài điển hình này sẽ có màu nền đỏ với ánh kim xanh lục và có những đốm “hoang dã”. Nắp mang xanh lục. Cả hai có đuôi “át bích” ở cá đực. Lỗi Loại: Thân mập mạp. Bất kỳ màu nào khác ngoài xanh dương hay xanh lục trên nắp mang. Bất kỳ màu thân nào khác ngoài màu hoang dã chuẩn mực. Giới Tính: Cá đực điển hình có vây dài và màu sắc nổi bật hơn. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (egg tube) điển hình và tròn hơn ở bụng và phần giữa. Cá Lai: Việc phân biệt cá lai (hybrid) có thể là một nhiệm vụ khó khăn nếu bạn không biết mình đang tìm kiếm điều gì. Trong ví dụ này, hãy để ý đến màu sắc quá đậm đà. Đầu tương tự splendens, thân quá mập mạp và những đốm ở đuôi là một tính trạng smaragdina, và các vạch nắp mang xanh lục, tính trạng smaragdina khác. Cá này là một loại lai tạp smaragdina x splendens hoang dã. Bảng được thực hiện bởi Nonn Panitvong: Đặc điểmBetta splendensBetta imbellisBetta smaragdinaBetta mahachaiensisNắp mang2 vạch đỏ2 vạch lụcVảy xanh bao phủ gần hết nắp mang2 vạch lục/lamThânBình thườngBình thườngDài hơn hai loài đầuDài hơn hai loài đầuTia vây bụng (kỳ) đầu tiênĐen chóp trắngĐen chóp trắngĐen chóp trắngLục/lam chóp trắngMàu đuôiLam & đỏ. Viền đỏ. Không chấm đenLam & đỏ. Viền đỏ. Không chấm đenLam & đỏ. Không viền đỏ. Một số quần thể có chấm đenLam & đỏ. Không viền đỏ. Thường có chấm đenVây lẻBình thườngBình thườngLớn hơn hai loài đầuLớn hơn hai loài đầu
Nhóm Bellica Nhóm Bellica được chia thành bellica và simorum. Bellica: Bellica được phát hiện ở Indonesia, Malaysia và Thái Lan, và được giới thiệu vào Cộng Hòa Dominica. Kích thước bellica sẽ từ 4 ½ đến 5 inch [11-12.5 cm] về chiều dài, và không yêu cầu điều kiện nước riêng. Có thể đấu đá với những loài khác thuộc nhóm của mình; tuy nhiên chúng là loài cá nhút nhát điển hình. Hành Vi: Đôi khi hung dữ. Có thể hoàn toàn chậm rãi (sluggish). Có thể rất nhanh. Loài Betta thông minh, hiếu kỳ. Có thể sừng với hình [phản chiếu] nhưng quá lớn để trưng bày thoải mái trong lọ. Lỗi Loại: Đầu to (dấu hiệu Loài Ấp Miệng). Bất kỳ màu nào khác ngoài thân nâu (tanish) hanh vàng với ánh kim xanh lục. Giới Tính: Cá đực có chóp (spike) ở đuôi và có đoạn kéo dài (extension) ở vây hậu môn của chúng. Cá cái sẽ có đuôi tròn và có thể có bụng căng phồng (plumper). Simorum: Simorum được phát hiện ở các đầm lầy than bùn Indonesia. Kích thước simorum sẽ từ 4 ¾ đến 5 inch về chiều dài, và không yêu cầu điều kiện nước riêng. Có thể đấu đá với những loài khác thuộc nhóm của mình; tuy nhiên chúng là loài cá nhút nhát điển hình. Hành Vi: Đôi khi hung dữ. Có thể hoàn toàn chậm rãi (sluggish). Có thể rất nhanh. Loài Betta thông minh, hiếu kỳ. Có thể sừng với hình [phản chiếu] nhưng quá lớn để trưng bày thoải mái trong lọ. Lỗi Loại: Đầu to (dấu hiệu Loài Ấp Miệng). Bất kỳ màu nào khác ngoài thân nâu (tanish) hanh vàng với ánh kim xanh lục. Giới Tính: Cá đực có chóp (spike) ở đuôi và có đoạn kéo dài (extension) ở vây hậu môn của chúng. Cá cái sẽ có đuôi tròn và có thể có bụng căng phồng (plumper). Nhóm Coccina Nhóm Coccina được chia thành những loài brownorum, burdigala, coccina, livida, miniopinna, persephone, rutilans, tussyae, uberis và sp. Sukadana. Hầu hết những loài này cư ngụ trong các đầm than bùn vốn pH rất thấp từ 3.7 đến 5.0. Việc nhận diện loài riêng đòi hỏi các chìa khóa phân loại và đôi khi địa điểm đánh bắt chính xác của chúng phải được biết. Một số loài cũng biến thiên cao độ về ngoại hình và điều này khiến cho việc nhận diện thậm chí còn khó khăn hơn. LoàiVây lưngĐốmKỳCoccinaNhỏĐốm Xanh Lục*Đỏ, Chóp ĐenLividaNhỏĐốm Xanh Lục Nhỏ*Đỏ, Chóp TrắngBrownorumNhỏĐốm Xanh Lục LớnĐỏ, Chóp TrắngBurdigalaLớnMặt Bên Xanh LụcĐỏ, Chóp TrắngMiniopinnaNhỏKhôngĐỏ, Chóp TrắngPersephoneNhỏKhôngĐen, hiếm khi đỏ, Chóp TrắngRutilansNhỏKhôngĐỏ, Dài, Chóp TrắngTussyaeNhỏKhôngĐỏ, Ngắn, Chóp TrắngUberisLớnMặt Bên Xanh LụcĐỏ, Chóp Trắngsp. SukadanaLớnKhôngĐỏ, Chóp Trắng* Một số quần thể không có các đốm bên (side blotches). Coccina: Coccina đến từ các đầm nước đen Indonesia và có thể được phát hiện ở Malaysia. Coccina có thể biến thiên cao độ về ngoại hình. Nhìn chung, cá đực có một đốm hay chấm xanh lục ở bên thân nhưng một số quần thể thiếu đốm và số khác có mặt bên xanh lục thay vì đốm. Kích thước trưởng thành là 2 ¼ inch [5.7 cm]. Hành Vi: Cá nhút nhát và e thẹn điển hình, ưa lẩn trốn. Cá đực có thể sừng với con đực hay cái khác. Giới Tính: Cá đực có vây dài hơn vốn có chóp nhọn (pointed) và mép trắng đặc trưng. Cá cái có bụng căng phồng và có thể xuất hiện ống dẫn trứng (egg tube). Livida: Được phát hiện trong các dòng (stream) nước đen Malaysia nơi mà pH từ 3.5 đến 3.7, nhiệt độ không quá 75 độ F [24 độ C]. Livida được ghi nhận với mắt xanh lục đối lập với mắt xanh dương điển hình của coccina, tuy nhiên coccina có thể có mắt xanh lục và livida có một đốm bên xanh lục nhỏ hơn. Kích thước trưởng thành là 1 ½ inch [3.5 cm]. Hành Vi: Cá lẩn trốn, nhút nhát vốn có thể sừng với cá đực và cái đồng loại. Lỗi Loại: Mắt xanh dương (dấu hiệu coccina), đốm bên lớn (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Brownorum Brownorum đến từ Indonesia, Malaysia, miền trung và đông Thái Lan, Campuchia và nam Việt Nam [?]. Loài này là một loại cá đầm than bùn nữa đến từ nước pH thấp. Brownorum được biết là loài ấp miệng và làm tổ bọt. Kích thước trưởng thành là 1 ¼ inch [3.2 cm]. Hành Vi: Brownorum có thể hiếu động và sẽ sừng với cá khác cùng loài. Brownorum phải trông cảnh giác và lanh lợi. Lỗi Loại: Đốm bên nhỏ (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Burdigala Burdigala được phát hiện trên đảo Bangka ở Indonesia. Khi cá đực không lên màu, nó có thể có một chấm (spot) đen ở khoảng hai phần ba về phía sau thân mình. Kích thước trưởng thành đạt 1 ½ inch [3.5 cm]. Hành Vi: Có thể là con cá phô trương khi sừng. Phải cảnh giác và không e thẹn. Lỗi Loại: Đốm bên không đen (dấu hiệu loài khác), vây lưng nhỏ (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Miniopinna Miniopinna đến từ rừng đầm lầy tại Tanjong Bintan trên đảo Riau, Indonesia. Kích thước trưởng thành đạt 1 inch [2.5 cm]. Hành Vi: Có thể là con cá phô trương khi sừng. Phải cảnh giác và không e thẹn. Lỗi Loại: Kỳ đen (dấu hiệu persephone), vây lưng lớn (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Persephone: Được phát hiện tại bắc Ayer Hitam ở Malaysia. Được liệt kê như nguy cấp nghiêm trọng (critically endangered). Persephone sẫm màu và khi bị phấn khích cá đực biến thành màu đen tuyền với ánh kim xanh lục. Kích thước trưởng thành đạt 1 ½ inch [3.5 cm]. Hành Vi: Có thể là con cá phô trương khi sừng. Phải cảnh giác và không e thẹn. Lỗi Loại: Vây lưng lớn (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (ovipositor hay egg tube). Rutilans: Được phát hiện ở Kalimantan Barat, Borneo. Rutilans màu đỏ mà không có bất kỳ vệt xanh lục nào. Đây là loài nhỏ con. Rutilans không có ánh kim xanh lục như hầu hết các loài khác thuộc nhóm coccina tuy nhiên sp. cf. rutilans có màu xanh lục như burdigala. Kích thước trưởng thành đạt 1 ½ inch [3.5 cm]. Hành Vi: Có thể là con cá phô trương khi sừng. Phải cảnh giác và không e thẹn. Lỗi Loại: Vây lưng lớn (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (ovipositor hay egg tube). Tussyae: Tussyae đến từ Bang Pahang, Malaysia trong các đầm nước đen. Nó thiếu sao hay đốm ở bên thân như nhiều thành viên khác thuộc nhóm. Kích thước trưởng thành đạt 1 ½ inch [3.5 cm]. Hành Vi: Có thể là con cá phô trương khi sừng. Phải cảnh giác và không e thẹn. Lỗi Loại: Đốm bên xanh lục hay xanh dương (dấu hiệu loài khác), vây lưng lớn (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (ovipositor hay egg tube). Uberis: Loài được mô tả gần đây, trước đấy là sp. Pangkalanbun. Kích thước trưởng thành đạt 1 ½ inch [3.5 cm]. Hành Vi: Có thể là con cá phô trương khi sừng. Phải cảnh giác và không e thẹn. Lỗi Loại: Đốm bên (dấu hiệu loài khác), vây lưng nhỏ (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (ovipositor hay egg tube). sp. Sukadana: Loài sp. Sukadana đến từ vùng Kalimantan Barat. Trông rất giống uberis ngoại trừ uberis có mặt bên ánh kim trong khi sp. Sukadana không có. Kích thước trưởng thành đạt 1 ½ inch [3.5 cm]. Hành Vi: Có thể là con cá phô trương khi sừng. Phải cảnh giác và không e thẹn. Lỗi Loại: Đốm bên (dấu hiệu loài khác), vây lưng nhỏ (dấu hiệu loài khác). Giới Tính: Cá đực luôn có vây dài hơn với chóp nhọn (pointing) ở vây lưng và vây hậu môn. Cá đực có thể có mép trắng (white edging) ở các vây. Cá cái phải thể hiện ống dẫn trứng (ovipositor hay egg tube). Nhóm Picta Nhóm Picta bao gồm các loài picta, falx, simplex và taeniata. Picta: Vốn được cho là có tầm phân bố rộng ở Đông Nam Á nhưng khi các nhà phân loại học khảo sát các quần thể một cách cặn kẽ hơn, họ đang phân loại chúng như những loài mới. Loài này đang phổ biến hơn và việc dễ nuôi và lai tạo đang gia tăng sự phổ biến của chúng. Kích thước trưởng thành đạt 2 ½ inch [6 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác nhưng nhiều loài ấp miệng có xu hướng e thẹn trong lọ. Nói chung, một nhúm thực vật sẽ trợ giúp điều này. Lỗi Loại: Bất kỳ con nào thể hiện bất kỳ dấu hiệu bệnh tật nào. Cặp cá thể hiện cùng viền (stripes) vây hậu môn. Giới Tính: Cả hai giới có thể xuất hiện một viền vây hậu môn nhưng cá đực rất nổi bật. Cá đực có thể có màu sắc đậm hơn nhiều, gần như đỏ gạch. Cá đực cũng có đầu rộng hơn và nếu cá mái nhận đủ ánh sáng thì vòi trứng của nó có thể được nhìn thấy. Falx: Loài được đặt tên gần đây và là một phân nhóm thuộc quần thể picta trước đây. Falx giống hệt với picta ở hầu hết phương diện và không thể phân biệt chúng trong hồ nuôi. Kích thước trưởng thành đạt 2 ½ inch [6 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác nhưng nhiều loài ấp miệng có xu hướng e thẹn trong lọ. Nói chung, một nhúm thực vật sẽ trợ giúp điều này. Lỗi Loại: Bất kỳ con nào thể hiện bất kỳ dấu hiệu bệnh tật nào. Cặp cá thể hiện cùng viền (stripes) vây hậu môn. Giới Tính: Cả hai giới có thể xuất hiện một viền vây hậu môn nhưng cá đực rất nổi bật. Cá đực có thể có màu sắc đậm hơn nhiều, gần như đỏ gạch. Cá đực cũng có đầu rộng hơn và nếu cá mái nhận đủ ánh sáng thì vòi trứng của nó có thể được nhìn thấy. Simplex: Simplex cũng là một trong những loài mới từ Thái Lan. Chúng có thể gây gổ (quarrelsome) hơn nhiều so với các thành viên khác thuộc nhóm Picta. Kích thước trưởng thành đạt 2 ½ inch [6 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác nhưng nhiều loài ấp miệng có xu hướng e thẹn trong lọ. Nói chung, một nhúm thực vật sẽ trợ giúp điều này. Lỗi Loại: Bất kỳ con nào thể hiện bất kỳ dấu hiệu bệnh tật nào. Cặp cá thể hiện cùng viền (stripes) vây hậu môn. Giới Tính: Cả hai giới có thể xuất hiện một viền vây hậu môn nhưng cá đực rất nổi bật. Cá đực có thể có màu sắc đậm hơn nhiều, gần như đỏ gạch. Cá đực cũng có đầu rộng hơn và nếu cá mái nhận đủ ánh sáng thì vòi trứng của nó có thể được nhìn thấy. Taeniata: Taeniata là thành viên lớn nhất, hiếm thấy thuộc nhóm Picta. Chúng có thể rất cảnh giác và hoạt bát. Kích thước trưởng thành đạt 3 inch [7.5 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác nhưng nhiều loài ấp miệng có xu hướng e thẹn trong lọ. Nói chung, một nhúm thực vật sẽ trợ giúp điều này. Lỗi Loại: Bất kỳ con nào thể hiện bất kỳ dấu hiệu bệnh tật nào. Cặp cá thể hiện cùng viền (stripes) vây hậu môn. Giới Tính: Cả hai giới có thể xuất hiện một viền vây hậu môn nhưng cá đực rất nổi bật. Cá đực có thể có màu sắc đậm hơn nhiều, gần như đỏ gạch. Cá đực cũng có đầu rộng hơn và nếu cá mái nhận đủ ánh sáng thì vòi trứng của nó có thể được nhìn thấy. [/th]
Nhóm Unimaculata Nhóm Unimaculata bao gồm các loài unimaculata, macrostoma, patoti, ocellata, pallifina và gladiator. Về mặt hình thái, chúng không giống bất kỳ loài Betta hoang dã nào khác vì vậy một số người bảo lưu rằng chúng phải thuộc về một chi (genus) riêng của mình. Unimaculata: Unimaculata là loài rất hiếu kỳ nhưng cũng rất nhảy nhót, có khả năng phóng quá 2 feet [61 cm] vào không khí. Mặc dù không màu mè, chúng vẫn hào nhoáng (flashy) theo cách riêng của mình. Kích thước trưởng thành đạt 5 inch [13 cm]. Hành Vi: Chúng phải trông cảnh giác với các vây trương thẳng và không bị nhúm (clamped). Chúng có thể sừng hay sử dụng lối “ngáp phô trương” (yawning display) cho sự thống trị. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật và vây nhúm nào. Giới Tính: Có thể khó khăn với loài này nhưng cá đực có xu hướng sở hữu mặt (cheek) ánh kim mà cá cái có xu hướng không có và cá đực trưởng thành già hơn sẽ có vành (labial flaps) trên môi của chúng. Macrostoma: Macrostoma được coi là bửu bối trong thế giới Betta bởi vì độ hiếm và khó nuôi của chúng. Giá của chúng đang giảm đi nhiều bởi vì nhiều người đang lai tạo chúng một cách thành công. Có hai dạng macrostoma và chúng có thể được phân loại thành hai loài riêng biệt sau này. Dạng mà chúng ta công nhận là Dạng Brunei và không phải là Dạng Malaysia. Kích thước trưởng thành đạt 5 ½ inch [14 cm]. Hành Vi: Phải hiếu động và cảnh giác nhưng loài này có lẽ e thẹn trừ phi chúng được dưỡng (acclimated) cho việc triển lãm. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào. Cá cái thể hiện màu cá đực. Giới Tính: Khi cá đực đang phát dục thì rất dễ [phân biệt] bởi vì cá đực trở nên nâu cam với một đốm ở vây lưng cũng như viền ở đuôi. Tìm hoa văn ở các vây lẻ của Macrostoma để xác định một mái có thực sự là mái. Màu thân có thể trông như mái nhưng các vây sẽ thường cho ra một cá đực nhát (subdominant). Patoti: Patoti là thành viên tương đối khó kiếm thuộc nhóm Unimaculata. Cá cái hung dữ với cá đực cùng loài và thực sự có thể giết chúng. Kích thước trưởng thành đạt 5 inch [13 cm]. Hành Vi: Phải hiếu động và cảnh giác và không thể hiện bất kỳ dấu hiệu bệnh tật nào. Lỗi Loại: Cả hai cá thể đều có sọc đứng (vertical stripes). Cá đực có thể không xuất hiện sọc ở mọi thời điểm. Giới Tính: Ở cá trưởng thành, cá đực phải thể hiện sọc đứng nhưng cá mái không có. Cá mái không được thể hiện bất kỳ hay rất ít ánh kim mặt, tuy nhiên cá đực có thể có hay không tùy thuộc vào trạng thái (mood) và quần thể. Ocellata: Loài cá hiếm thấy nữa thuộc nhóm Unimaculata, về mọi khía cạnh rất giống với loài unimaculata. Kích thước trưởng thành đạt 5 inch [13 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác nhưng có thể e thẹn. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào, mái với ánh kim như đực. Giới Tính: Cá đực có môi lớn hơn và ánh kim đậm đà hơn (xem hình dưới). Nhóm Pugnax Nhóm Pugnax bao gồm các loài pugnax, cracens, enisae, fusca, lehi, pallida, prima, pulchra, schalleri, stigmosa và raja. Pugnax: Pugnax là một trong những loài ấp miệng lớn và sẵn có nhưng vì thiếu màu nên ít được nuôi. Cá đực trưởng thành có đoạn kéo dài trên kỳ và vây hậu môn, và có một đuôi chóp, cá cái không có. Kích thước trưởng thành đạt 5 inch [13 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác và pugnax dễ được thuần lọ (bowl trained). Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào. Cả hai đều thể hiện đoạn vây kéo dài. Giới Tính: Cá đực có đoạn kéo dài trên kỳ và vây hậu môn, và có một đuôi chóp. Cá đực cũng có thể xuất hiện ánh kim xanh lục trên mặt chúng. Enisae: Enisae là một trong số những loài mới từ vùng Kapuas và phô bày một viền xanh dương tươi tắn trên vây hậu môn và đuôi như đa số các loài ở vùng đó. Có thể hung dữ nhưng về mọi khía cạnh, rất giống với pugnax. Kích thước trưởng thành đạt 3 ½ inch [9 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác và hiếu động tuy nhiên có thể e thẹn. Lỗi Loại: Cả hai đều thể hiện một viền xanh dương tươi tắn. Giới Tính: Cá đực sẽ có một đuôi chóp hơn cá cái, cá đực sẽ thể hiện màu mặt xanh lục hay xanh dương. Cá đực cũng sẽ có kỳ dài hơn và phải có một chóp nhọn ở vây hậu môn. Fusca: Fusca là loài được mô tả từ sớm nhưng các cá thể đã lưu hành là đáng ngờ. Fusca gần đây được nhập khẩu với số lượng lớn từ những nguồn đáng tin cậy và hiện rất sẵn có. Kích thước trưởng thành đạt 5 inch [13 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác tuy nhiên có thể e thẹn. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào, cá mái với bộ vây như đực. Giới Tính: Cá đực có ánh kim gold trên mặt; cá cái chủ yếu thể hiện các sọc hay không màu. Cá đực có kỳ dài hơn nhiều và có một đoạn kéo dài của vây hậu môn và một chóp đuôi (spike). Pallida: Pallida là loài được mô tả gần đây từ Thái Lan, vốn khá mờ nhạt nhưng loài đang trở nên sẵn có hơn. Kích thước trưởng thành đạt từ 4 đến 5 inch [10-13 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác với các vây trương thẳng. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào, cá cái thể hiện một chóp đuôi khác biệt. Giới Tính: Cá đực có kỳ dài hơn và một chóp đuôi nổi bật. Cá đực cũng nhiều ánh kim hơn. Prima: Prima cũng là loài được mô tả gần đây vốn đang trở nên sẵn có hơn. Kích thước trưởng thành đạt 3 ½ inch [9 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác với các vây trương thẳng. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào. Mái thể hiện bộ vây như đực. Giới Tính: Cá đực có một chóp đuôi cũng như kỳ dài hơn và đoạn kéo dài của vây hậu môn. Raja: Loài nữa được mô tả gần đây vốn đã được nhập khẩu. Kích thước trưởng thành đạt 5 inch [13 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác với các vây trương thẳng. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào, mái phô bày bộ vây như đực. Giới Tính: Cá đực có kỳ dài hơn và đoạn vây hậu môn kéo dài lớn. Cá đực cũng có mặt ánh kim gold xanh lục. Nhóm Albimarginata Nhóm Albimarginata hiện chỉ bao gồm hai loài, albimarginata và channoides, tuy nhiên có khả năng hai loài nữa đang được mô tả từ những loài này. Albimarginata: Albimarginata rõ ràng là một trong số những loài betta hoang dã xinh đẹp nhất, tuy hãy còn khá hiếm nhưng đang trở nên phổ biến hơn. Nó là loài tuy nhỏ nhưng rất phô trương. Kích thước trưởng thành đạt 2 inch [5 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác tuy nhiên có lẽ e thẹn bởi nó là loài nhút nhát. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào, cá cái thể hiện màu như đực. Giới Tính: Có thể khó phân biệt trừ phi cá đực lên màu. Cá đực có xu hướng sở hữu viền trắng (white band) lớn hơn và mặt cam bóng bẩy. Channoides: Loài ấp miệng hiếm nữa nhưng đang sẵn có hơn. Cũng như albimarginata, đây là những con cá nhỏ và có thể không lên màu trong một cuộc triển lãm. Kích thước trưởng thành đạt 2 inch [5 cm]. Hành Vi: Phải cảnh giác nhưng có thể e thẹn vì căng thẳng. Lỗi Loại: Bất kỳ biểu hiện bệnh tật nào. Cả hai thể hiện màu như đực (male coloration). Giới Tính: Có thể khá khó, cá đực thường có đầu to hơn và khi lên màu thì sẽ dễ phân biệt. Nhóm Foerschi Hiện bốn loài được liệt kê, foerschi, strohi, mandor và rubra. Betta rubra không được thấy kể từ 1890 tuy nhiên một số nhà sưu tập tuyên bố phát hiện vài con gần đây và chúng có thể sắp sửa sẵn có. Foerschi: Foerschi tương đối dễ nuôi nhưng thể hiện điều kiện tốt nhất của mình trong nước có tính acid. Cá đực có thể thật nổi bật trong khi cá cái tương đối nhạt nhòa. Cá đực có thể đi từ nâu (giống như cá mái bên phải) cho đến đen tuyền với lớp phủ ánh kim xanh dương và xanh lục làm nên một con cá thực sự xinh đẹp. Kích thước trưởng thành đạt 3 inch [7.5 cm]. Hành Vi: Phải hiếu động và cảnh giác với các vây trương thẳng. Lỗi Loại: Cá đực với các vạch mang gold (strohi), cá cái thể hiện màu như đực. Giới Tính: Cá đực có các vạch mang (opercular bars) đỏ và có một chóp đuôi nhẹ và một vây hậu môn nhọn hơn. Mandor: Loài mới được mô tả rất giống foerschi. Kích thước trưởng thành đạt 3 inch [7.5 cm]. Hành Vi: Phải hiếu động và cảnh giác với các vây trương thẳng. Lỗi Loại: Cá đực với các vạch mang gold (strohi), cá cái thể hiện màu như đực. Giới Tính: Cá đực có các vạch mang (opercular bars) đỏ và có một chóp đuôi nhẹ và một vây hậu môn nhọn hơn. Strohi: Loài mới hơn vốn rất giống với foerschi hay mandor ngoại trừ các vạch mang gold thay vì đỏ. Lưu ý ở tất cả các loài, cá mái duy trì vạch mang gold. Kích thước trưởng thành đạt 3 inch [7.5 cm]. Hành Vi: Phải hiếu động và cảnh giác với các vây trương thẳng. Lỗi Loại: Cá đực với các vạch mang đỏ (foerschi và mandor), cá cái thể hiện màu như đực. Giới Tính: Cá đực có các vạch mang (opercular bars) gold và có một chóp đuôi nhẹ và một vây hậu môn nhọn hơn. Nhóm Akarensis Hành Vi: Những loài lớn vốn có lẽ e thẹn trong lọ nuôi. Betta akarensis – Loài nâu nhạt đến gold với ánh kim gold trên vảy. Các mảng ánh kim từ gold đến xanh lục nhạt trên mặt ở cả đực lẫn cái. Vây kéo dài hay đoạn dãn vây (fin extension) ở cả hai giới nhưng cá đực sẽ dài hơn. Lớn đến 5 inch [13 cm]. Betta antoni – Thân tông nâu tương phản với môi dưới đen, vạch cằm (chin bar) đen và dạng thân mảnh mai của nó. Sẽ lớn đến 5 inch [13 cm]. Betta chini – Loài to, màu nâu vốn lớn đến 5.5 inch [14 cm] về chiều dài. Có thể có ánh kim phớt xanh lục ở mặt. Thân có màu ánh kim phớt xanh lục vốn nổi bật hơn ở cá đực. Loài này thường thể hiện hai sọc ngang (horizontal) màu đen. Cá đực có vây dài hơn. Betta ibanorum – loài nâu sẫm vốn lớn đến 5 inch [13 cm] về chiều dài.. Vây rất giống các loài thuộc nhóm Pugnax nên rất dễ bị nhầm với chúng. Nhóm Anabatoides Betta anabatoides – Loài ấp miệng lớn, không đốm. Màu vàng nhạt đến xám tro với một ít ánh kim và vây hơi dài. Lớn đến 5 inch [13 cm]. Nhóm Waseri Những loài lớn vốn có lẽ e thẹn trong lọ nuôi. Betta waseri – Loài nâu nhạt với các sọc ngang từ nâu sẫm đến đen. Lớn đến 5.5 inch [14 cm]. Nắp mang có thể xuất hiện một số ánh kim xanh lục; ngoài ra, có thể có chút ít ánh kim trên thân. Cá đực có đuôi hình át bích (spade), và vây lưng và vây hậu môn dài hơn cá cái. Betta chloropharynx – Loài lớn, màu nâu với rất ít ánh kim. Có thể xuất hiện những sọc ngang. Bộ phận sặc sỡ nhất là họng xanh lục (green throat). Cá đực với vây hơi dài hơn. Lớn đến 5 inch [13 cm]. Betta pi – Loài lớn, màu nâu với rất ít ánh kim. Những cá thể hoang dã có thể lớn đến 7 inch [18 cm] nhưng những con cản hồ (captive bred) hiếm khi nào vượt quá 5.5 inch [14 cm]. Loài này dễ dàng được nhận dạng nhờ dấu vết dưới dạng biểu tượng toán học pi ở môi dưới và cằm của nó. Cá đực có vây dài hơn. Betta tomi – Loài lớn, màu nâu với với nhiều ánh kim hơn nhiều thành viên khác thuộc nhóm này. Vùng mặt và cằm có thể xanh lục hay xanh dương ngả lục. Màu sắc tương tự có thể tiếp tục lan đến nửa dưới của cá. Cá đực có vây dài hơn. Lớn đến 5.5 inch [14 cm].