Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Sơ lược về cá xương

Thảo luận trong 'articles archive' bắt đầu bởi vnreddevil, 21/6/07.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Sơ lược về cá xương

    Cá xương hiện đại gọi là teleost bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ khủng long sắp sửa bị tuyệt chủng. Chúng thay thế vị trí của những loài cá tổ tiên trước đó, những loài mà hình dạng của chúng rất giống với loài cá tầm (sturgeon), cá amia (bowfin) hay cá nhái sấu (alligator gar) ngày nay [hình 1]. Cá xương tức teleost bao gồm cả cichlid chiếm đến 95 phần trăm trên toàn bộ quần thể cá. Chúng bao gồm nhiều đại diện trong quá trình tiến hóa, từ những loài cổ sơ cho đến những loài bậc cao. Chúng thường được chia thành hai nhóm, nhóm vây mềm (soft-rayed) sơ khai và nhóm vây gai (spiny-rayed) bậc cao [hình 2].

    [​IMG]
    Hình 1. Các loài cá giáp thuộc nhóm cá cổ sơ Placoderm cách nay 400 triệu năm. Chúng được xem là những đại diện đầu tiên của loài cá. Chúng còn lưu dấu vết cho đến ngày nay thông qua các hóa thạch.

    [​IMG]
    Hình 2. Các điểm phân biệt chính giữa nhóm cá vây mềm và vây gai chính là vị trí của các vây ngực và vây bụng, sự hiện diện của các gai vây ở cá vây gai, và sau cùng là dạng vẩy.

    Nhóm vây mềm sơ khai còn một vài đại diện như cá trích (herring), cá chình (eel), cá cháo (tarpon), cá rồng (arowana, chúng thuộc về nhóm cá nước ngọt gọi là cá lưỡi xương) và một vài loài cá biển sống ở vực sâu. Chúng có các đặc điểm của cá xương hiện đại về mặt cấu trúc cơ thể và giải phẫu học, chẳng hạn như cấu trúc của tim và nắp mang. Nhưng đồng thời chúng cũng có những đặc điểm riêng biệt, chẳng hạn cấu trúc miệng cũng như một số cấu trúc về hình thái nói chung kém phát triển.

    Nhóm vây mềm bậc cao hơn bao gồm khoảng 20.000 loài thuộc về gần 400 họ. Một số đại diện quen thuộc của nhóm này gồm có cá hồi (salmon), cá nheo (catfish), cá măng (pike) và cá mướp (smelt). Chúng không có các gai trên vây lưng và vây hậu môn nên không thể đâm khi chúng ta bắt chúng. Vẩy của chúng là loại vẩy tròn (cycloid) và hàm của chúng cũng kém phát triển hơn nhóm vây gai.

    Nhìn chung, nhóm vây mềm được nhận dạng dựa vào đặc điểm của các vây chẵn, tương tự như chân và tay ở những loài thú có vú: vây bụng nằm lùi về phía sau thân cá trong khi vây ngực hạ xuống rất thấp, ngay dưới nắp mang.

    Ngược lại, nhóm cá xương vây gai chẳng hạn như cichlid trông hoàn toàn khác biệt. Chúng có gai trên các vây và vảy là loại vảy lược (ctenoid) sần xùi. Những cái gai cứng và sắc trên vây lưng, vây bụng và vây hậu môn làm cho các loài cá ăn thịt rất khó nuốt chửng được chúng. Chúng rất dễ được phân biệt dựa trên vị trí của các cặp vây chẵn. Vây bụng di chuyển lên phía trước nằm ngay sau và về phía dưới đầu còn vây ngực di chuyển lên trên sang hai bên thân cá. Có vô số những loài cá thuộc nhóm này mà chúng ta có thể kể ra ở đây, chẳng hạn cá bướm (butterflyfish), cá mú (grouper), cá rô (anabas), cá vược (perch), cá hồng (snapper)...

    Hầu hết cá vây gai bậc cao được xếp vào một nhóm gọi là Percomorpha gồm cả cá biển lẫn cá nước ngọt. Nhóm này có hơn 200 họ, kể cả Cichlidae, với khoảng 12.000 loài[1]. Nhiều họ cá tiến hóa thành những đặc điểm và hình dạng kỳ lạ mà trông chúng chẳng giống với cá chút nào. Cá nóc hòm (boxfish) và cá ngựa (seahorse) là hai trường hợp như vậy, hình dạng của chúng trông khác xa với khái niệm thông thường về loài cá. Nhiều loài bậc cao lại có xu hướng tiến hóa ngược trông giống như các loài sơ khai, chẳng hạn như cá chình trông rất giống với lươn nhưng lại chẳng có mối quan hệ họ hàng gần nào cả. Ngay cả một số loài cá hiện đại điển hình cũng biến đổi vẩy của chúng trở lại thành dạng vảy tròn thay vì vảy lược hoặc là không có vảy như ở một số loài cá bống. Một số loài như cá sặt lại có ít hoặc không có gai trên vây và thậm chí có thể di chuyển vây bụng lên phía trước chạm vào thành họng.

    Việc sắp xếp tuần tự từ các loài sơ khai cho đến các loài bậc cao rất dễ bị nhầm lẫn. Hiện tại, một trong những nhóm gây ra nhiều thách thức nhất là liên bộ Ostariophysi[2] bởi vì xếp nó vào vị trí nào trong hệ thống phân loại là rất khó khăn. Nhóm này bao gồm các loài như cá tuế (minnow), cá giác (sucker), cá nheo, characin, cá lông gà (gymnotid) và nhóm gồm một số loài cá biển sơ khai. Ostariophysi có các đặc điểm kết hợp giữa nhóm sơ khai và nhóm bậc cao; chẳng hạn vẩy và vây của chúng giống như nhóm sơ khai, nhưng lỗ tai của chúng lại phát triển hơn hẳn bất cứ loài cá nào khác. Hơn nữa, vài loài lại phát triển và kết hợp các tia vây thành những gai phụ. Một số loài cá nheo có những gai như vậy trên vây bụng và chúng cũng thường được nối với tuyến độc [hình 3].

    [​IMG]
    Hình 3. Một số đại diện thuộc nhóm Ostariophysi.

    Những họ cá có hình dạng cá vược thuộc bộ Perciformes cũng rất khó sắp xếp, rất hiếm khi chúng ta tìm thấy một đặc điểm hoàn toàn khác biệt để phân biệt họ này với họ khác; thay vào đó, việc phân biệt phải dựa trên một nhóm các đặc điểm. Những đặc điểm này thường là các chi tiết bên trong hộp sọ mà nếu chỉ quan sát bên ngoài thì không thể thấy được.

    Sau đây là bảng phân loại của của họ Cichlidae mà qua đó chúng ta có thể thấy được vị trí của chúng trong lớp cá xương và hệ thống phân loại nói chung:

    Giới Chordata: sinh vật có dây sống và các dạng sơ khai của chúng.

    Phân giới Vertebrata: động vật có dây sống.

    Liên lớp Gnathostomata: cá có hàm sơ khai bao gồm cá xương và cá sụn.

    Bậc Teleostomi: cá xương bao gồm cá vây tia (ray-finned), cá phổi và cá vây tay.

    Lớp Actinopterygii: cá vây tia bao gồm cá xương hiện đại, nhóm cá nhái sấu và nhóm cá tầm.

    Phân lớp Neopterygii

    Tiểu lớp Teleostei: cá xương hiện đại bao gồm cá vây gai và khoảng 7 liên bộ khác.

    Liên bộ Acanthopterygii: cá vây gai bao gồm bộ cá vược và khoảng 9 bộ khác

    Bộ Perciformes: bộ cá vược bao gồm phân bộ Labrodei và khoảng 20 phân bộ khác

    Phân bộ Labroidei bao gồm 5 họ trong đó có Cichlidae

    Họ Cichlidae

    Ghi chú

    [1] Nhóm Percomorpha bao gồm các bộ sau: bộ cá vược (Perciformes), bộ mang liền (Synbranchiformes), bộ cá nóc (Tetraodontiformes), bộ cá bơn (Pleuronectiformes), bộ Beryciformes, bộ Stephanoberyciformes, bộ Gasterosteiformes và bộ Scorpaeniformes. Chúng có một số đặc điểm chung như sau:

    - Vây ngực nằm giữa thân.

    - Có gai vây.

    - Vây ngực có tia vây cứng phía trước và năm tia vây mềm.

    - Vây ngực có xương đai vây (pelvic girdle).

    [2] Liên bộ Ostariophysi gồm những bộ sau: bộ cá chép (Cypriniformes), bộ cá nheo (Siluriformes), bộ Gymnotiformes, bộ Characiformes và bộ Gonorynchiformes.
     
    Last edited by a moderator: 6/3/16

Chia sẻ trang này