Opaque White Opaque đuôi kép đực (V. Parnell). Dr. Gene Lucas là người phát hiện Opaque betta. Đây là những con vốn thiếu lớp nền sẫm (dark undercoloration) điển hình. Nền tảng di truyền của Opaque White được ký hiệu bằng các ký tự c, bl, Si, nr, Op: c – Gien Cambodian cho việc thiếu nền sẫm (dark body). bl – Màu xanh thép (steel) vốn thể hiện trắng-bạc trên nền nhạt. Si – Sự lan tỏa của màu ánh kim, trong trường hợp này xanh thép bao phủ toàn bộ cá. nr – Non-red, nghĩa là sự bất lực của cá trong việc tạo ra màu đỏ. Op – Opaque, gien đặc biệt vốn tạo ra bề ngoài trắng đục (opaqueness) hay bột (powdery) của cá. “Si” được coi là gien trội, “c” và “nr” được coi là gien lặn và “Op” là gien trội một phần (partially) -- một alen đơn lẻ để tính trạng hiển thị, nhưng 2 alen sẽ hiển thị rất rõ. Op là gien vốn định hình Opaque. Opaque không nhất thiết nghĩa là Trắng. Có ba loại Opaque: Xanh Thép, Xanh Lục và Xanh Dương. Nhưng thông thường, khi nói về Opaque White, chúng ta đang chỉ đến Opaque Xanh Thép. Tuy nhiên, bởi ngoại hình của cá betta, nên thuật ngữ “Opaque White” được dùng một cách phổ biến. Opaque Xanh Lục và Xanh Dương có ánh xanh lục hay xanh dương thay vì màu trắng thuần. Opaque chỉ cho thấy rằng cá sở hữu gien “Op”. Do đó, nếu bạn cản Opaque Xanh Dương x Opaque Xanh Dương; bạn sẽ thu được Opaque Xanh Dương, Opaque Xanh Lục và Opaque Xanh Thép; và nếu bạn cản Opaque Xanh Dương x Opaque Xanh Thép (Trắng); bạn sẽ thu được Opaque Xanh Dương và Opaque Xanh Thép (Trắng). Opaque White cái. Opaque có những vấn đề cố hữu. Bất kỳ khuyết tật màu sắc nhỏ nào, một cái vảy đen, môi đen .v.v. đều hiện ra rất nổi bật ở betta trắng. Tông màu lý tưởng ở White Opaque là màu trắng đậm đặc trên thân và vây vốn có màu kem hay sữa, và cực kỳ tinh khiết. Lem đỏ hay xanh thép là vấn đề phổ biến ở cá Opaque, và bị coi là lỗi rất nghiêm trọng. Có thể rất khó để loại bỏ lem màu khỏi dòng opaque của bạn, và chỉ có thể được thực hiện thông qua rất nhiều bầy lai Opaque x Opaque mà không pha với dòng khác. Chẳng may, việc này có thể làm suy giảm đáng kể lượng màu opaque ở cá, nên cần pha với xanh thép để khiến màu dày trở lại. Với điều đó, lem màu lại được đưa vào, và chu trình tái lặp. Vấn đề nữa với Opaque White là vây kém chất lượng. Để có màu trắng thuần, các nhà lai tạo opaque white có xu hướng chọn betta theo chất lượng màu sắc thay vì vây. Kết quả là, hầu hết các dòng Opaque White không thể sánh bằng những dòng màu khác về vây. Cho mục đích triển lãm, Opaque tiếp tục là một thách thức. Các nhà lai tạo thích làm việc với Opaque phải đối mặt không chỉ vấn đề vây và lem màu khổ biến; không hung dữ bằng các dòng khác, chúng chẳng có mấy xu hướng trình diễn (sừng) tốt trong khi nhà triển lãm (exhibitor) mong đợi cá thể hiện trước trọng tài. Tiêu chuẩn đánh giá của IBC định nghĩa Opaque như là “cá Non-Red nền nhạt tương tự như Pastel. Tuy nhiên, có sự tích lũy guanine khiến bề ngoài đậm đặc như sữa và độ đục (opacity) ở màu sắc của những cá này”. Sự tích lũy này rõ nhất xung quanh đầu và mắt, và tiếp tục chồng chất một khi betta già đi. Màu trắng phấn (powdery) dày là chìa khoá để phân biệt một Opaque betta với một Pastel. Điều này có thể được thực hiện một cách dễ dàng bằng cách quan sát cá từ bên trên và xung quanh đầu. Ở một con Opaque, màu đậm lan hẳn lên trên và bao gồm cả mũi, trong khi ở Pastel, màu thường không lan đến hay nếu có thì thường thưa thớt. Hầu hết cá opaque từ những dòng hàng đầu đều trắng tinh cho mọi mục đích và dự định đến khi chúng đạt 7 tháng tuổi hay đại loại, vào thời điểm đó chúng bắt đầu phát triển một số loại lem màu. Mục đích là tạo ra cá trắng vốn giữ trắng trong thời gian lâu nhất có thể. Có lẽ một ngày nào đó chúng ta thậm chí sẽ có white opaque thuần vốn giữ trắng cả đời!