Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Macropodus opercularis (LINNAEUS, 1758)

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá betta - cá cờ' bắt đầu bởi vnreddevil, 31/7/18.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Macropodus opercularis (LINNAEUS, 1758)
    Cá Cờ Sọc (Paradise Fish)

    https://www.seriouslyfish.com/species/macropodus-opercularis/

    Tên đồng nghĩa
    Labrus opercularis Linnaeus, 1758; Labrus operculatus Gmelin, 1789; Chaetodon chinensis Bloch, 1790; Macropodus chinensis (Bloch, 1790); Macropodus viridi-auratus La Cepède, 1801; Macropodus venustus Cuvier, in Cuvier & Valenciennes, 1831; Macropodus filamentosus Oshima, 1919; ? Macropodus baviensis Nguyen [H. D.] & Nguyen [V. H.], in Nguyen [V. H.], 2005

    Từ nguyên
    Macropodus: từ tiếng Hy Lạp Cổ μακρός ‎(makrós), nghĩa là ‘dài’, và ποδός ‎(podós), nghĩa là ‘bàn chân, chân’, khi đề cập đến vây bụng dài ở các thành viên thuộc chi.

    opercularis: dường như đề cập đến đốm sẫm nắp mang ở loài này.

    Phân loại
    Bộ: Perciformes, Họ: Osphronemidae

    Phân bố
    Phân bố tự nhiên ở Trung Quốc, phía nam hệ thống sông Dương Tử, bao gồm các đảo Đài Loan, Hải Nam, miền bắc và trung Việt Nam và đông bắc Lào.

    Địa bàn chuẩn (type locality) là ‘châu Á’, những vùng gần với Quảng Đông, nam Trung Quốc.

    Những quần thể xâm nhập tồn tại ở một số nước bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Ấn Độ, và Mỹ, hầu hết là hậu quả của ngành kinh doanh cá cảnh.

    Địa bàn
    Loài này có thể tồn tại trong đủ loại điều kiện sinh thái và địa bàn. Nó có thể được tìm thấy ở nhiều loại địa bàn vùng trũng, từ dòng chảy, vùng đọng nước sông (backwater) và ao hồ tự nhiên cho đến hào nước, ruộng lúa và các hồ chứa nhân tạo. Ở một số khu vực nó cũng cư ngụ ở các dòng suối núi [như khu tự trị người Choang, Trung Quốc].

    Chiều dài chuẩn tối đa
    70 – 80 mm.

    Kích thước hồ nuôi
    Hồ với kích thước 80 x 30 cm hay tương đương là tối thiểu cho một cặp.

    Nuôi dưỡng
    Có thể nuôi trong một hồ được trang trí-đầy đủ dẫu nhiều nhà lai tạo thích không sử dụng đáy nền để dễ bảo trì.

    Rễ và nhánh lũa có thể được sử dụng và đặt sao cho vài chỗ có bóng râm được tạo ra, trong khi một số thực vật nổi hay bề mặt nên được đưa vào nếu mục đích là để ép cá (xem ‘Sinh sản’).

    Việc bổ sung vụn lá khô nhấn mạnh hơn nữa cảm giác tự nhiên cũng như bổ sung nơi trú ẩn kéo theo nó sự phát triển của quần thể vi sinh vốn có thể cung cấp nguồn thức ăn giá trị cho cá bột.

    Loài này có thể được nuôi trong hồ không sưởi, có bằng chứng cho thấy nó thực sự hưởng lợi từ thời kỳ lạnh lẽo trong những tháng mùa đông.

    Điều kiện nước
    Nhiệt độ: 10 – 22 °C

    pH: 6.0 – 8.0

    Độ cứng: 90 – 357 ppm

    Khẩu phần
    Thích săn ấu trùng côn trùng và những thứ tương tự như ngoài tự nhiên, và nên được cho ăn bo bo (Daphnia) đông lạnh hay tươi sống, Artemia, trùn trắng (white worm), trùn kim (grindal worm) v.v. trong môi trường hồ nuôi. Một số đồ ăn khô chất lượng cao cũng có thể được chấp nhận, nhất là ở các dòng thuần dưỡng (xem phần Ghi chú).

    Hành vi và sự tương thích
    Cá hình dạng-tương tự nên tránh, nhưng có thể nuôi chung với những loài bầy đàn hiền hòa với đòi hỏi môi trường tương đương.

    Cá đực hung dữ về bảo vệ lãnh thổ, hành vi này trở nên rõ rệt trong giai đoạn sinh sản, và không nên nuôi chung với nhau trừ phi hồ thật rộng. Cũng nên cung cấp hai cá mái hay nhiều hơn cho mỗi con đực nhằm phân tán sự chú ý của nó.

    Nhị hình giới tính
    Cá đực lớn hơn cá cái và sở hữu các tia vây mềm kéo dài ở vây lưng, vây hậu môn và đuôi.

    Sinh sản
    Loài làm tổ bọt. Nước mềm với nhiệt độ hơi cao nghe nói là để dẫn dụ hành vi sinh sản.

    Hồ phải có nắp vừa-khít có thể (một số nhà lai tạo sử dụng màng co) bởi vì cá bột cần thâm nhập lớp không khí ẩm, ấm áp, mà nếu không có nó, sự phát triển của mê lộ (labyrinth) có thể bị lệch lạc.

    Cặp cá không cần phải phân tách trước khi sinh sản. Cá đực có xu hướng xây tổ bọt của mình bên trong một bè thực vật thủy sinh nổi, và cá cái thường ưng thuận vào giai đoạn này. Một khi tổ bọt được hoàn thành, cá đực thể hiện với bạn tình tiềm năng bằng việc sử dụng vây lưng, vây hậu môn và đuôi dài thậm thượt của mình.

    Cá cái trở nên nhạt màu hơn. Việc sinh sản thường diễn ra bên dưới cái tổ theo kiểu ‘ôm ấp’ điển hình của các loài thuộc họ tai tượng (osphronemids), với cá đực quấn xung quanh cá cái.

    Vào lúc đỉnh điểm, tinh dịch (milt) và một số trứng được phóng thích. Thứ sau bao gồm một giọt dầu và nhẹ hơn nước, do đó chúng nổi lên tổ, thường được hỗ trợ bởi cá đực. Rồi quá trình được lặp lại cho đến khi cá cái kiệt sức, với nhiều trăm trứng được đẻ nói chung.

    Sau-sinh sản, cá trưởng thành có thể được để yên như bình thường. Cá cái thường được chấp nhận bởi cá đực và thậm chí có thể đóng một vai trò tích cực trong việc bảo vệ khu vực xung quanh tổ khỏi những kẻ xâm nhập.

    Một khi trứng nở, cá bột ở yên trên tổ cho đến khi túi noãn được hấp thu-hết. Khi chúng bắt đầu bơi tự do, cá đực thường không ăn thịt con mình.

    Cần thức ăn cỡ-trùng cỏ (infusoria-grade) trong vài ngày đầu tiên, sau đó chúng có thể chấp nhận thức ăn chuyển động như trùn cám (microworm) và ấu trùng Artemia. Việc thay nước nên ít và thường xuyên thay vì nhiều và thỉnh thoảng.

    Ghi chú
    M. opercularis là loài cá cảnh cổ điển, từng được giới thiệu vào thú chơi bởi một binh sĩ Pháp có tên Gerault vào 1869. Trong số 100 cá thể được gửi ban đầu, 22 sống sót và được cản thành công sau đó vào cùng năm bởi một người Pháp khác, Pierre Carbonnier ở Paris. Điều này mang lại sự khác biệt cho loài như là một trong những loài cá cảnh đầu tiên được nhập vào châu Âu. Nó cũng được biết như là ‘cá chọi Trung Quốc’, ‘cá thiên đường’ và ‘cá thiên đường xanh’.

    Những ví dụ hoang dã là không phổ biến ở thú chơi cá cảnh, bởi vì loài được chăn nuôi ở mức độ rộng rãi. Cũng tồn tại một số dòng cá cảnh lai-tuyển chọn bao gồm dạng vàng (xanthic), bạch tạng (albino), đỏ, lam và không sọc (stripeless).

    Nó có thể được phân biệt với đồng loại (congeners) bởi sự kết hợp của những đặc điểm sau: đuôi chĩa (forked); đốm nắp mang nâu sẫm với viền sau ửng đỏ; 7-11 sọc thân màu xanh trên nền đỏ ở cá thể sống; sọc mắt nối với đốm ở phần trồi sau của nắp mang; mặt trên đầu và phần trước vây lưng với các đốm sẫm; viền sau vảy trên thân không sậm hơn mặt vảy.

    Như những loài khác thuộc phân bộ Anabantoidei, loài này sở hữu một bộ phận hỗ trợ thở (accessory breathing) được gọi là mê lộ (labyrinth), vốn cho phép cá hít thở không khí ở một mức độ nhất định. Bao gồm cả cặp mang phụ (suprabranchial) hình thành qua sự kéo dãn của phần mang trên (epibranchial) của cung mang đầu tiên và nằm ở một khoang phía trên mang, nó có nhiều nếp da gấp, giàu-mao mạch vốn vận hành như một bề mặt trao đổi khí rộng. Cấu trúc của nó thay đổi về mức độ phức tạp tùy loài, có xu hướng phát triển hơn ở những loài cư ngụ trong môi trường khắc nghiệt hơn.

    Tham khảo
    1. Linnaeus, C., 1758 - Holmiae. v. 1: i-ii + 1-824
    Systema Naturae, Ed. X. (Systema naturae per regna tria naturae, secundum classes, ordines, genera, species, cum characteribus, differentiis, synonymis, locis. Tomus I. Editio decima, reformata.).
    2. Freyhof, J. and F. Herder , 2002 - Ichthyological Exploration of Freshwaters 13(2): 147-167
    Review of the paradise fishes of the genus Macropodus in Vietnam, with description of two new species from Vietnam and southern China (Perciformes: Osphronemidae).
    3. Ho, H.-C. and K.-T. Shao, 2011 - Zootaxa 2957: 1-74
    Annotated checklist and type catalog of fish genera and species described from Taiwan.
    4. Knight, J. D. M. and S. Balasubramanian, 2015 - Journal of Threatened Taxa 7(3): 7044-7046
    On a Record of Two Alien Fish Species (Teleostei: Osphronemidae) from the Natural Waters of Chennai, Tamil Nadu, India.
    5. Kottelat, M., 2001 - WHT Publications, Colombo: 1-198
    Fishes of Laos.
    6. Kottelat, M., 2013 - Raffles Bulletin of Zoology Supplement 27: 1-663
    The fishes of the inland waters of southeast Asia: a catalogue and core bibiography of the fishes known to occur in freshwaters, mangroves and estuaries.
    7. Kottelat, M., 2001 - Environment and Social Development Unit, East Asia and Pacific Region. The World Bank: i-iii + 1-123 + 1-18
    Freshwater fishes of northern Vietnam. A preliminary check-list of the fishes known or expected to occur in northern Vietnam with comments on systematics and nomenclature.
    8. Paepke, H-J., 1994 - Neue Brehm Bücherei 616, Westarp Wissenschaften, Magdeburg: 1-144
    Die Paradiesfische.
    9. Schindler, I., 2009 - Der Makropode 31(1): 9-12
    News on the taxonomy and distribution of Macropodus species.
    10. Wang, T-Z., C-S. Tzeng and S-C- Shen, 1999 - Acta Zoologica Taiwanica 10(2): 121-134
    Conservation and Phylogeography of Taiwan Paradise Fish, Macropodus opercularis Linnaeus.
    11. Winstanley, T. and K. D. Clements, 2008 - Zootaxa 1908: 1-27
    Morphological re-examination and taxonomy of the genus Macropodus (Perciformes: Osphronemidae).

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành; dòng cá cảnh thương mại. © Hristo Hristov

    [​IMG]
    Địa bàn ở miền nam Trung Quốc. © Zhou Hang

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành. © Dana

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành; dòng cá cảnh thương mại. © Hristo Hristov

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành; dòng 'xanh' thương mại. © Hristo Hristov

    [​IMG]
    Cặp cá trong cú ôm bên dưới tổ bọt. © Dušan Kojić

    [​IMG]
    Tổ bọt và trứng được thụ tinh. © Dana

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành bên dưới tổ bọt lớn của mình. © Dana

    [​IMG]
    Cá bột mới nở lưu lại trên tổ bọt. © Dana

    [​IMG]
    Tổ bọt và cá bột mới nở nhìn từ bên trên. © Dana

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành; dòng thương mại. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành từ thị trường cá cảnh Đan Mạch; dòng thương mại. © Unimati.dk

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành từ thị trường cá cảnh Đan Mạch; dòng thương mại. © Unimati.dk

    [​IMG]
    Cá đực non khi bảo vệ lãnh thổ; dòng thương mại. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cá đực non; dòng thương mại. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cặp cá trưởng thành, cá cái bên phải. © Dana

    [​IMG]
    Cá đực non; dòng 'albino' thương mại. © Edward Corp

    [​IMG]
    Cá đực từ thị trường cá cảnh Đức; dòng thương mại. © Hippocampus-Bildarchiv

    [​IMG]
    Cá đực non; dòng thương mại. © H-J Chen


    ================================================


    Ghi chú

    *Các dòng cá cờ 'lai tạo' ngày nay đều ít nhiều liên quan đến cá cờ sọc Macropodus opercularis: Cá Cờ - Các biến thể hình dạng, màu sắc và hoa văn

    *Vài thông tin về lịch sử cá cờ (cá thiên đường) dưới danh nghĩa một loài cá cảnh ở châu Âu được tìm thấy trong bài “Enter the gourami” của Christian Castille đăng trên tờ Popular Fish Keeping (9/2013):

    “Cá thiên đường (Macropodus opercularis) được mô tả vào 1785, là con gourami [họ hàng nhà sặc] đầu tiên được phân loại bởi Carl Linnaeus, nhà phân loại đa năng nhất từng tồn tại. Những con này được mô tả qua việc nghiên cứu cẩn trọng số cá được thu thập và gửi đến bảo tàng. Nhưng có một câu chuyện thú vị gợi ý rằng loài này từng được thấy và nuôi ở Anh trong gần một thế kỷ trước đó.

    Vào 1665, nhà nhật ký Samuel Pepys viết về “một loài quý hiếm được nuôi trong lọ nước, vốn có thể sống mãi, và hoa văn xinh đẹp, từ nước ngoài”. Mô tả này được tin là chỉ đến một cặp cá thiên đường (paradise gouramies) được đưa về trên con tàu thuộc Công Ty Đông Ấn từ Trung Quốc. Hơn nữa, bài viết của Pepys được tin là mô tả về cá cảnh đầu tiên ở châu Âu.

    Cá thiên đường trở nên phổ biến vào 1869, nhờ Pierre Carbonnier, vốn là một chủ trại Pháp và giám đốc Thủy Cung Trocadéro. Ông nhờ một người bạn, phục vụ như là chiến sĩ trong quân đội Pháp, nếu có thể thu xếp một chuyến hàng cá cho ông từ Trung Quốc. Chuyến này bao gồm một số cá thiên đường, 22 cá thể sống sót qua cuộc hải trình, và chúng được cản (breed) sau đó cùng năm với thành công vang dội”.

    *Trích dẫn tiểu sử của Pierre Carbonnier trên Wikipedia:

    “Pierre Carbonnier sáng lập vào 1850, một trong những Thủy Cung (Public Aquaria) lâu đời nhất ở Paris.

    Vào 1869 ông bắt đầu lai tạo cá cảnh, là người đầu tiên ở châu Âu lai tạo một loài cá cảnh nhiệt đới, Macropod (cá Thiên Đường). Đây là chuyến hàng cá nhiệt đới đầu tiên được gửi tới châu Âu bởi một sĩ quan hải quân có tên Gérault theo yêu cầu của Lãnh Sự Pháp (1868-1869) Eugène Simon ở huyện Ninh Ba (Ningbo) tỉnh Triết Giang (Zhejiang) đông nam Trung Quốc. Trong 100 con macropod, 22 con đến nơi sống sót vào ngày 8 tháng Bảy, 1869 ở Paris, và phần chia của Carbonnier là 17 cá thể (12 đực và 5 cái). Hai năm sau, ông gầy được 200 cá thể Thiên Đường.

    Trong cùng năm ông viết tờ rơi (brochure) “Thông báo và quan sát về việc ghép cặp ở một loại cá Trung Quốc” (fr. Rapport et Observations sur l'accouplement d'une espèce de poisson de Chine; 1869), “Ghi nhận mới về cá Trung Quốc thuộc chi macropode” (fr. Nouvelle Note sur un poisson de Chine appartenant au genre macropode; 1870) và những bài khác. Ông cũng xuất bản hàng loạt công trình dành cho việc lai tạo các loài giáp xác (crustaceans)”.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/8/21

Chia sẻ trang này