Loại Copper (S. Khumhom) Vào năm 2003, một cặp Gold Betta [Vàng Kim] lập kỷ lục đấu giá cá betta trên trang Aquabid.com – 1,000 đô-la! Dòng cá mới này càn quét thế giới betta như một cơn bão. Không chỉ màu sắc hoàn toàn đẹp đẽ và độc đáo -- một màu vàng kim thuần khiết, bóng loáng -- mà dường như nó cũng cản thuần (breed true) nữa: Cản hai con gold betta với nhau thường tạo ra 100% gold hậu duệ. Nhờ sự phát tán dễ dàng (và được tạo cảm hứng từ kỷ lục mua bán), mà ngày càng có nhiều nhà lai tạo bắt đầu gầy dựng dòng cá gold của riêng mình, và hiện nay chúng là mặt hàng phổ biến ở các tiệm cá cũng như nhà đấu giá. Cá gold bắt nguồn từ việc pha (crossing) giữa Betta splendens [thuần dưỡng] với những loài betta hoang dã khác, như Betta imbellis và Betta Mahachai [mahachaiensis]. Về tự nhiên, hai loài sau có mức độ ánh kim (iridescence) trên vảy cao hơn để thích nghi với vùng nước đục ở môi trường bản địa của chúng, và các đợt pha tiếp theo với splendens đã tạo ra cá plakat với tính trạng vảy metallic đầu tiên. Các nhà lai tạo châu Á lai tuyển chọn những cá thể có nhiều metallic nhất, cho đến khi màu copper [đồng] trở nên rất đậm và dày. Lứa đầu tiên của những con này vốn cản thuần được gọi là “Copper Imbellis”, và mặc dù chúng trở nên phổ biến ở thị trường hải ngoại dưới dạng vây ngắn của mình, chúng không mấy được quan tâm ở Mỹ và châu Âu, nơi mà người chơi vẫn còn quá say mê dạng cá Halfmoon nên chẳng buồn để mắt tới metallic plakat. (S. Khumhom) Bằng việc lai tuyển chọn nữa, các nhà lai tạo châu Á tâm huyết có khả năng phát triển copper imbellis thành dạng đuôi dài delta, rồi nâng cấp bộ vây từ đó. Việc pha cá Copper đuôi dài với Halfmoon green đã tạo ra những con Delta và Halfmoon metallic green đầu tiên, hầu hết chúng nhiễm đỏ (red wash) nặng. Những thế hệ cản anh/em tiếp theo đã tẩy sạch màu [đỏ], và tạo ra nền xanh lục với ánh kim copper bên trên, về kiểu hình vốn trông như màu gold tươi sáng. Việc cản những con “gold” này với cá xanh ngọc, xanh thép và xanh dương ánh kim thuần đã tạo ra “masked” betta -- tức cá xanh lục, xanh thép hay xanh dương nhưng thay vì có đầu đen điển hình của betta ánh kim thuần, gien copper khiến màu sắc lan ra toàn bộ mặt và vùng đầu của cá. Blue “mask” – thể loại ánh kim copper (ảnh S. Khumhom) Khi đang viết bài này, IBC chỉ công nhận các Thể Loại Copper Đơn Sắc Nền Sẫm cho mục đích triển lãm (gold, metallic green, metallic blue, metallic steel, metallic đỏ và metallic đen), nhưng các thể loại copper cũng xuất hiện dưới dạng “Platinum” [Bạch Kim] (copper trên nền opaque), metallic nhị sắc (bicolor), metallic marble, metallic đa sắc (multicolor) và những màu khác nữa. ============================= Ghi chú *Các thuật ngữ “ánh kim copper” (copper iridescent) hay “gien copper” trong bài này cũng chính là metallic hay gien + (hoang dã). Khi gien + xuất hiện ở cá steel (xanh thép) thì hiệu ứng màu sắc mà chúng ta thấy sẽ là Copper. Khi gien + xuất hiện ở cá opaque thì hiệu ứng mà chúng ta thấy sẽ là Platinum. *Ánh kim thuần (pure iridescent) là các màu xanh dương (blue), xanh lục (green/turquoise), và xanh thép (steel) phổ biến với đầu đen mà chúng ta vẫn biết. *Hình minh họa thể hiện hiệu ứng ánh sáng ở một góc nhìn nhất định chứ không phải màu thực. Ba hình trên là copper với tông xanh thép (steel shade), hình dưới cùng không phải là copper, nhiều khả năng là turquoise3 (Blblnm+).