Định Nghĩa một Đuôi Tưa Đẹp Với mục đích triển lãm trong thể loại CT, Đuôi Tưa được định nghĩa như là cá betta thể hiện tối thiểu 33% triệt thoái (reduction) màng vây so với chiều dài tia vây ở mỗi trong ba vây chính (đuôi, vây lưng và vây hậu môn). Yêu cầu này phải được thể hiện ở cả ba vây chính nhưng không buộc phải thể hiện giữa mọi tia vây nhằm đạt yêu cầu tối thiểu để được xếp như là cá betta Đuôi Tưa. Trên Tạp Chí Flare! số tháng ba/tháng tư, 2004, Ban Trọng Tài IBC đã ban hành các tiêu chuẩn mới liên quan đến việc đánh giá betta Đuôi Tưa. Nên nhớ rằng các tiêu chuẩn chỉ áp dụng cho betta CT đực; còn cá cái được đánh giá trong các lớp tiêu chuẩn màu sắc theo thể loại màu tương ứng của chúng. Tia Đơn (Single Ray) - Ở cá “SR” CT, khoảng cách màng vây (web margins), một cách lý tưởng, phải đồng đều (uniform) và triệt thoái màng vây bằng nhau giữa các tia sơ cấp (primary) và tia nhánh. Tia Chéo (Cross Ray) – Tia chéo (“CR”) được hình thành bởi những cặp độ giãn tia (ray extensions) vốn cong về phía nhau. Một CR CT mà mỗi độ giãn tia ở đuôi của nó bắt chéo với nhau thì đôi khi được gọi là “King Crown”, và được coi như là cấp độ thành tựu cao nhất ở cá Đuôi Tưa. Cá Đuôi Tưa Tia Chéo đực (M. Tan). Tia Đôi (Double Ray) - Ở “DR” CT, màng vây bị triệt thoái tại hai cấp độ: cấp độ giữa một cặp tia nhánh (ray branches) và cấp độ khác, sâu hơn, giữa hai tia (pair of rays). Các nhà lai tạo chuộng cá Đuôi Tưa tia đôi (double ray) và tia tứ (four ray). Những tính trạng này được coi như là trung tính (neutral) và không được chấm trên cá Đuôi Tưa tia-đơn (single ray). Độ giãn tia tứ hay thậm chí tia bát (eight ray) là không phổ biến và hiệu ứng hầu như chỉ giới hạn ở đuôi. Cá Đuôi Tưa Tia Đôi (M. Tan). Tia Hai Đôi (Double Double Ray)- “DDR” là tia hai đôi, do đó một phân nhánh tia tứ. Cá Đuôi Tưa Tia Hai Đôi (S. Khumhom). Tia Ngẫu Nhiên (Random Ray) – Thuật ngữ “RR” về cơ bản có nghĩa góc đuôi pha trộn giữa phân nhánh tia đơn, tia đôi, tia tam và tia tứ, tất cả trộn chung. Nó được dùng để mô tả những con mà hình thức tia vây không cố định (not fixed). Với mục đích đánh giá CT trong triển lãm IBC, đây là những tính trạng mong đợi (desired traits) mà các trọng tài được khuyến khích để tìm kiếm: 1. Triệt thoái (reduction) màng vây 33% ở mỗi vây chính là tối thiểu. Triệt thoái màng vây 50% ở mỗi vây chính là lý tưởng [vây chính là vây lưng, vây hậu môn và đuôi]. 2. Độ giãn tia (ray extension) phải đồng đều về sự cân đối (balance), chiều dài và khoảng cách (đối xứng). 3. Độ giãn tia-đôi và tia-tứ trên vây lưng và vây hậu môn để phù hợp với độ giãn tia đuôi. Những tính trạng không mong đợi ở cá Đuôi Tưa: 1. Triệt thoái màng vây ít hơn 33% ở 2 hay toàn bộ 3 vây chính là một LỖI LOẠI (DISQUALIFYING FAULT). 2. Triệt thoái màng vây ít hơn 33% ở 1 vây chính là một LỖI TRỌNG (SEVERE fault). 3. Độ giãn tia với chiều dài khác nhau là LỖI NHẸ (MINOR fault) trừ phi các tia vây có hình thức (pattern) đều, lặp lại. 4. Tia ngẫu nhiên (random), chẳng hạn như các tia trồi đơn lẻ (single protruding) ở cá Đuôi Tưa tia-đôi hay tia-tứ, không nên bị coi là nhiều hơn một LỖI NHẸ và được bỏ qua nếu chỉ có một tia trồi đơn lẻ. 5. Mỗi độ giãn tia cong hay xoắn là một LỖI NHẸ. 6. Mỗi khoảng cách không đều (non-symmetrical) giữa các độ giãn tia là một LỖI NHẸ.