Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Betta Hoang Dã - TNB

Thảo luận trong 'articles archive' bắt đầu bởi vnreddevil, 27/11/12.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Betta Hoang Dã

    [​IMG]
    Betta imbellis

    Đã có thời mọi người đều nghĩ đến Betta splendens bất cứ khi nào nói về Betta. Điều này đang thay đổi. Một số lượng đang gia tăng những người hiện đang thích một vài loài khác thuộc chi Betta. Chi hiện có hơn 50 loài [cập nhật mới: 73 loài được công nhận]; một con số đang gia tăng khi các vùng rừng mưa ở Đông Nam Á được khảo sát và những loài mới được phát hiện và mô tả bởi các nhà khoa học.

    Mặc dù betta cảnh và thú cưng hiện đại thường được đón chào nhờ bộ vây dài, tha thướt và màu sắc tươi sáng của nó, có nhiều thuần túy nhân (purist) ngoài kia, những người thích ngắm và nuôi các loại betta khác nhau dưới dạng hoang dã của chúng. Có nhiều điều được nói về việc ngắm betta hoang dã dưới hình hài Tự Nhiên, và những loại betta khác rất thú vị để nghiên cứu, đặc biệt khi so sánh với loại Betta splendens thông dụng của chúng ta. International Betta Congress hỗ trợ một phân ban gọi là Chương Trình Bảo Tồn Loài (Species Maintenance Program), vốn khuyến khích việc nghiên cứu liên tục để tìm hiểu về những loài khác nhau và nhu cầu của chúng, cung cấp con giống cho những bên quan tâm, và xây dựng hướng dẫn đánh giá với mục đích lai tạo Betta Hoang Dã cho triển lãm. Chương dưới đây sẽ mô tả một số loài non-splendens phổ biến hơn, và các vấn đề cơ bản của việc chăm sóc và lai tạo chúng.

    Phân bộ: Anabantoidei [nhóm cá có mê lộ]
    Họ: Anabantidae [họ cá rô]
    ------Chi: Anabas, Ctenopoma, Sandelia
    Họ: Helostomatidae [họ cá mùi]
    ------Chi: Helostoma
    Họ: Osphronemidae [họ cá tai tượng]
    ---Phân họ Belontiinae [cá rô biển]
    ------Chi Belontia.
    ---Phân họ: Macropodinae [cá lia thia, cá cờ, cá bã trầu]
    ------Chi: Betta, Ctenops, Macropodus, Malpulutta, Parosphromenus, Trichopsis
    ---Phân họ: Luciocephalinae [cá sặc]
    ------Chi: Colisa, Luciocephalus, Parasphaerichthys, Sphaerichthys, Trichogaster
    ---Phân họ: Osphroneminae [cá tai tượng]
    ------Chi: Osphronemus.

    Betta akarensis
    Akarensis, còn được biết như là Akar Betta, là một loài dạng-vược (perch-like) thuộc lớp Cá Vây Tia Actinopterygii. Chúng có quê nhà ở sông Akar, Sarawak, Borneo và là loài ấp miệng nhút nhát. Mặc dù bề ngoài tương tự như Betta pugnax, cá Akar đực có màu ánh kim lục trên nắp mang trong khi Betta pugnax không có. Vây Akar đực dài đáng kể so với betta hoang dã thông thường và cá đực hơi nhỏ hơn cá cái. Cá sinh sản bằng cách ôm ấp, điều khiến cá cái đẻ trứng vào nước, vốn sau đó được thụ tinh bởi cá đực và được hớp vào miệng nó, nơi chúng nằm trong 10-12 ngày. Cá đực đang ấp trứng nên được cách ly sau khi sinh sản hoàn tất và làm phiền càng ít càng tốt bằng không nó có thể nuốt trứng. Một đực giống tốt sẽ sản xuất khoảng 50-75 cá bột khi đến lúc “phun ra”, sau đó nó nên được bắt ra và được cho chế độ chăm sóc và dinh dưỡng tốt trong nhiều tuần.

    Betta albimarginata
    Albimarginata thuộc về lớp Actinopterygii và xuất phát từ đầm lầy nước ngọt của Borneo và Kalimantan. Đây là loài cá rất xinh đẹp và hiền hòa, vốn sống tốt nhất trong các nhóm với 4 con hay hơn. Chúng được bắt lần đầu bởi Maurice Kottelat vào 1993 ở vùng đông bắc tỉnh Kalimantan, Borneo. Không con Betta albimarginata gốc nào của Kottelat về đến nhà ông mà còn sống, nhưng những năm tiếp theo, ông và Peter K.L. Ng mô tả loài từ những con mà ông bảo quản trong formaldehyde [formol] như là albimarginata, nghĩa là “Viền Trắng”. Tương tự như Betta channoides về ngoại hình, hai loài ấp miệng thường bị nhầm lẫn trong ảnh bởi thậm chí những nhà ngư loại học uy tín nhất. Tương tự akarensis, albimarginata đực ngậm trứng và cá bột của mình trong 10-12 ngày trước khi phóng thích cá bột hoàn toàn độc lập. Cá đực sau đó có thể được bắt ra, và cá bột được nuôi bằng thức ăn tươi sống, nhỏ.

    Betta balunga
    Là một loài ấp miệng nữa từ Borneo, rất giống với cả akarensis lẫn pugnax. Balunga đực hơi lớn hơn cá cái, với vây lưng, đuôi và vây hậu môn hơi lớn hơn. Balunga đực ấp trứng và cá bột trong miệng mình 12-14 ngày, và sẽ có xu hướng quanh quẩn gần mặt nước khi đang ấp. Một khi nó nhả cá con ra, nó có thể được bắt ra và cá bột được nuôi bằng thức ăn tươi sống, nhỏ.

    Betta bellica
    Còn được biết như là “Cá Đá Thon” (Slim Fighting Fish), bellica từng được trưng bày như là một và cùng loài với Betta fasciataBetta bleekeri, được mô tả bởi Regan. Chúng đến từ các đầm lầy rậm gần sông Perak, Malaysia. Mặc dù tên La tinh của mình, ý nghĩa “Hiếu Chiến” (Warlike) gợi ý điều ngược lại, Betta bellica là loài cá hiền hòa, phù hợp với các hồ cộng đồng lớn, mặc dù chúng không nên được nuôi với những loài rất nhỏ. Trong hồ nhỏ, cá nhút nhát và không thể hiện màu sắc của mình, nhưng trong hồ thủy sinh lớn với nhiều chỗ trú ẩn, cá sẽ tự thể hiện màu sắc đầy đủ. Bởi vì cá rất phụ thuộc vào môi trường của chúng, tốt nhất mua một số cá non và nuôi chúng cả đời trong cùng hồ, bằng không cá có thể trở nên rất nhát. Bellica là loài làm tổ bọt vốn được báo cáo là rất dễ sinh sản trong tình huống hồ cộng đồng với thức ăn và thông số nước phù hợp. Cá cái sẽ đẻ trứng sau mỗi lần ôm ấp, và cặp cá sẽ đặt trứng lên tổ bọt, nơi chúng được chăm sóc bởi cá đực. Cá cái phải được bắt ra ngay, bởi cá đực được biết sẽ giết bạn tình của mình sau khi cuộc ép diễn ra.

    Betta foerschi
    Foerschi là loài betta ấp miệng từ Borneo và Kalimantan. Nó có bề ngoài rất sẫm, với các viền trên nắp mang vốn màu gold ở cá đực và đỏ ở cá cái. Cặp foerschi sinh sản gần đáy, và cá đực sẽ ấp trứng và cá bột trong khoảng 8-14 ngày. Sau đó, nó sẽ nhả khoảng 40 cá bột đen sẫm, vốn có thể cho ăn ngay lập tức thức ăn tươi sống, nhỏ. Cá cái nên được bắt ra ngay lúc này. Betta foerschi từ các vùng khác nhau có bề ngoài hơi khác nhau. Điều quan trọng là không pha foereschi từ các vùng nhau, để giữ các dòng được thuần.

    Betta imbellis
    Imbellis được nhiều người coi là cùng một loài với Betta splendens, nhưng có đủ khác biệt giữa hai loài để yêu cầu một sự phân biệt (distinction). Bởi một lẽ, imbellis (cái tên vốn có nghĩa “Không hiếu chiến”) là loài cá hiền lành, và có thể được nuôi chung với nhau, mặc dù nó có xu hướng đá lộn tùy tình huống. Không bao giờ được nuôi chung với Betta splendens, vốn sẽ nhắm vào nó như là mục tiêu. Imbellis chuộng hồ thủy sinh tối, rậm rạp với thật nhiều chỗ trú ẩn. Ngoại hình của nó rất giống với splendens hoang, với những khác biệt thực sự duy nhất là thân hình thuôn dài hơn của imbellis và vảy ánh kim dày đặc hơn của chúng. Sinh sản gần giống với splendens, với cá đực chọn một vị trí trong hồ để xây tổ bọt, và nhảy múa trước bạn tình tương lai với màu sắc lấp lánh cho đến khi nó dụ được một con vào sinh sản với mình. Imbellis và splendens thường có thể lai tạp (crossbred) với nhau.

    Betta macrostoma
    Còn được biết như là “Mỹ Ngư Brunei” (Brunei Beauty), loài ấp miệng sặc sỡ nhưng mong manh này chỉ được nuôi bởi những tay chơi giàu kinh nghiệm, những người có thể cho nó môi trường mà nó cần. Macrostoma cần nước rất sạch và mềm (trên 90% lọc thẩm thấu ngược) với một dòng chảy mạnh và hồ rộng. Macrostoma là loài cá nhanh nhẹn, và được biết là tự giết mình khi va đập vào thành hồ nhỏ. Nó cũng là tay nhảy nhót tài năng, và phải luôn được đậy. Cây thủy sinh rậm rạp với vô số chỗ trú ẩn kết hợp với thay nước nhiều là cần thiết để nuôi cá trong tình trạng sức khỏe tối ưu. Việc sinh sản được khơi mào bởi cá cái và diễn ra gần mặt nước. Cá đực sẽ ấp trứng và cá bột bằng miệng mình trong vòng 30 ngày, trong khi cá cái tuần tra quanh khu vực để bảo vệ bạn tình. Sau khi nhả [cá bột], cha mẹ nên được lưu lại 3-7 ngày nữa để chăm sóc cá bột. Cá bột chủ yếu là cái, và có thể được cho ăn ngay lập tức bằng thức ăn tươi sống, nhỏ. Một ghi chú bên lề thú vị, macrostoma hiện được đặt dưới sự bảo vệ của Quốc Vương Brunei, người có niềm yêu thích đặc biệt với loài cá, và cấm việc nuôi dưỡng “Mỹ Ngư Brunei”. Loài cá do vậy cực kỳ khó kiếm, và bạn có thể mong được chi cả đống tiền cho một cặp.

    Betta sp. Mahachai
    Rất giống với imbellis và splendens cả về cả ngoại hình lẫn hành vi sinh sản, thường bị nghi ngờ rằng cả ba loại betta này thực sự như nhau và là một, khác biệt duy nhất là môi trường thay vì thể chất. Thực ra, ba loại betta lai tạp [lẫn nhau] tương đối dễ dàng, và nghe nói rằng Copper Imbellis và Copper Splendens xuất phát từ việc pha những loài đó với Mahachai, loài có rất nhiều vảy ánh kim một cách tự nhiên để bù đắp cho vùng nước đục nơi nó sống bên trong ở Tây Nam Bangkok. [Hiện được xác định là một loài riêng Betta mahachaiensis]

    Betta pugnax
    Pugnax (vốn có nghĩa là “rừng”, do đó “Betta Rừng”) còn được biết như là Betta picta, Macropodus pugnax, Betta trifasciata, Betta anabatoides, Betta rubra, Betta macrophthalma, Betta fusca, Betta taeniataBetta brederi. Nó được phát hiện trong vùng hoang ở Sumatra, Indonesia cũng như Malaysia, Singapore và những vùng khác ở Đông Nam Á. Là một loài ấp miệng, pugnax cần không gian rộng, và ít người biết về khía cạnh tinh tế hơn trong hành sinh sản của nó. Betta pugnax hiền lành với nhiều loài cá khác, nhưng như nhiều loài thuộc họ [cá tai tượng], tốt nhất nên nuôi trong hồ riêng cho loài. Sinh sản qua hình thức ấp miệng và cá đực ấp trứng trong khoảng 14 ngày. Cá bột lớn con và có thể ăn ngay ấu trùng artemia mới nở và trùn kim (grindal worm).
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/6/18

Chia sẻ trang này