Khởi đầu với Corydoras Ian Fuller - http://www.scotcat.com/articles/article33.htm Trong nhiều năm trời, tôi từng được hỏi rất nhiều về vấn đề nuôi và lai tạo cá chuột Corydoras từ những người muốn nuôi chúng và những người vốn đã nuôi nhưng muốn thử lai tạo chúng. Tôi xin liệt kê mười câu hỏi phổ biến nhất sau đây. Các câu trả lời của tôi dựa vào nhiều năm kinh nghiệm mà tôi thu thập được cùng với việc nuôi dưỡng và lai tạo loài cá xinh đẹp này, và mang ý nghĩa định hướng hơn là quy luật. Câu hỏi 1. Chúng lớn đến đâu? 2. Tôi nên bố trí hồ nuôi như thế nào? 3. Tôi có thể thả bao nhiêu con? 4. Loài nào phù hợp nhất để khởi đầu và chúng đắt đến đâu? 5. Nơi nào tốt nhất để mua chúng? 6. Tôi nên để ý đến điều gì khi mua? 7. Chúng ăn gì? 8. Phân biệt giới tính như thế nào? 9. Tôi có thể lai tạo chúng? 10. Có tổng cộng bao nhiêu loài? Trả lời 1. Corydoras pygmaeus và Corydoras hastatus là những loài nhỏ nhất, hai mươi lăm mili mét, còn Corydoras barbatus có lẽ là loài lớn nhất với một trăm mili mét. Corydoras pygmaeus và Corydoras barbatus. 2. Có nhiều cách để bố trí hồ phù hợp với Corydoras, tôi nghĩ vấn đề nằm ở chỗ đâu là những điều kiện cần để xây dựng một môi trường lý tưởng cho Corydoras? Với tôi đấy là, a) Hồ phải đủ lớn với loài mà bạn dự định nuôi (Xem trả lời 3). b) Đáy nền trơn tru để tránh làm tổn thương vùng miệng. c) Chất lượng nước = Sạch và để hả (aged) trong ít nhất ba ngày, với thông số gần trung hòa pH 6.8 - 7.4, GH 10 - 15, và nhiệt độ nước 70 – 76 độ F là một khởi đầu tốt. Hầu hết nguồn nước máy, dẫu thông số khác biệt, đều hoàn toàn phù hợp với hầu hết các loài. Có hai loại bố trí mà tôi dùng. Loại đầu là hồ cộng đồng vốn nhắm tới việc nuôi Corydoras là chính, mà những loài khác chỉ được bổ sung để mang lại hình ảnh hài hòa. Bộ lọc ngoài (external filter) được sử dụng trong hồ cộng đồng của tôi bởi vì đáy nền mà tôi sử dụng vốn là sỏi mịn vốn không lớn quá một mili mét rưỡi, hay cát sông rửa sạch vốn nhanh làm kẹt bộ lọc đáy (under gravel filter). Đáy nền hoàn toàn mỏng, dày không quá mười lăm hay mười sáu mili mét, điều cho phép Corydoras tìm kiếm thức ăn ngay tại đáy. Việc này ngăn cản thức ăn lọt xuống sâu hơn mức mà cá chuột có thể sục tới và làm mục rữa đáy nền. Về trang trí, tôi sử dụng những mảnh gỗ đầm (bogwood) gắn dương xỉ hay rêu Java, và mặc dù đáy nền khá nông, tôi vẫn thấy hầu hết cây thủy sinh như Cabomba [la hán xanh] và Elodia đã và đang mọc tốt. Dương xỉ Java đặc biệt tốt bởi vì nó có thể bám trên nhiều loại vật liệu trang trí hồ khác nhau, như lũa, gạch hay đá. Nếu được cố định bằng một sợi dây thun thì nó sẽ tự bám trong một thời gian ngắn. Nó là loài cây mạnh mẽ và sẽ mọc tốt dưới đủ loại điều kiện nước. Loại thứ hai là bố trí mà tôi sử dụng thuần túy cho việc lai tạo và nuôi dưỡng cá bột. Những hồ này khác biệt về kích cỡ từ 20cm x 20cm x 20cm vốn để nuôi các loài nhỏ, đến 90cm x 45cm x 20cm để trữ và ươm cá bột. Kích thước của hồ lai tạo tương đối không quan trọng chừng nào mà nó đủ lớn để nuôi loài mà bạn dự định lai tạo. Trong những hồ nhỏ 20cm x 20cm x 20cm, tôi nuôi và lai tạo những loài nhỏ như C. xinguensis và C. griseus. C. xinguensis và C. griseus. Tất cả những hồ lai tạo và nuôi dưỡng của tôi đều có lớp cát sông hay sỏi mịn dày từ mười đến mười lăm mili mét. Trong quá khứ tôi từng có và thỉnh thoảng vẫn sử dụng hồ không trải đáy nền, chúng chủ yếu dùng để cách ly hay nuôi riêng cá bột ở nơi mà thức ăn thừa và chất thải được thấy và vệ sinh một cách dễ dàng mà không ảnh hưởng nhiều đến cá. Loại bộ lọc được dùng trong hồ nhỏ 20cm x 20cm x 20cm là bộ lọc khí (sponge filter). Hộp lọc khí (box filter) được sử dụng cho hồ cỡ trung 45cm x 25(30)cm x 25cm, và hồ nuôi cá bột 90cm x 45cm x 20cm lớn sử dụng bộ lọc dưới sỏi tự chế nối với máy bơm. Nếu cần bổ sung, tôi sử dụng bộ lọc thùng (canister) đặt ngoài. Hộp lọc khí (box filter) và bộ lọc khí (sponge filter). 3. Số lượng Corydoras được nuôi chung hồ là tùy ở bạn, nhưng phải nhớ rằng chúng là loài sống bầy đàn và thường hạnh phúc với nhóm sáu con hay nhiều hơn. Đề nghị của tôi là từ sáu đến tám inch [chiều dài] cá trên mỗi foot vuông đáy hồ hay nhiều hơn. Khi tính toán, đừng gộp đuôi vào chiều dài cá [đây là chiều dài chuẩn – Standard Length hay SL – không tính đuôi]. 4. Nhin chung hầu hết các loài Corydoras hiện hữu đều mạnh mẽ và không khó để nuôi và duy trì sức khỏe. Do đó, lựa chọn loài nào để khởi sự có lẽ liên quan nhiều đến giá cả hơn bất cứ điều gì khác. Có những loài như Corydoras aeneus và Corydoras paleatus vốn đã xuất hiện ngoài thú chơi nhiều thập kỷ, chúng đang được lai tạo với mục đích thương mại ở hàng ngàn trại cá tại vùng viễn đông và có thể được mua với giá một hay hai bảng (pound) mỗi con tùy kích thước. Mặt khác, có những loài như Corydoras solox và Corydoras gracilis vốn được hét giá đến năm mươi bảng mỗi con. Với những ai chưa từng nuôi Corydoras tôi đề nghị một số loài rẻ hơn, dưới 5 bảng mỗi con, một số trong đó trông rất ấn tượng và là loài lý tưởng để khởi đầu với. Đây là một số loài cần săn lùng: Corydoras trilineatus và Corydoras schwartzi có các mảng đen trắng sắc nét. Corydoras metae, Corydoras melini, và Corydoras rabauti có thân màu da thuộc (tan) với sọc đen dọc lưng. Rồi có một trong những loài mà tôi luôn yêu chuộng Corydoras arcuatus (cá chuột chồn hôi – skunk catfish), với thân trắng và một sọc đen cong chạy dọc từ miệng qua lưng đến đuôi. Với những ai đang thử nghiệm việc lai tạo, đừng tìm kiếm gì ngoài Corydoras aeneus, dạng bạch tạng của nó và Corydoras paleatus, đây có lẽ là những loài cá chuột dễ lai tạo nhất. Cá đực non C. metae và cá đực C. melini. C. rabauti và cá đực C. paleatus bạch tạng. Cá đực C. trilineatus. 5. Có vô số nguồn để mua Corydoras, một số tốt hơn số còn lại. Nơi đầu tiên cần tìm là các tiệm cá cảnh địa phương, việc chọn loài có thể bị hạn chế, nhưng hầu hết nếu không muốn nói là tất cả các tiệm đều có ít nhất vài loài để bán. Để có nhiều lựa chọn hơn, bạn có lẽ phải đi xa hơn đến một trong số các tiệm chuyên bán cá chuột. Có một vài chỗ thế này trong nước nơi mà việc chọn loài gần như là vô tận. Tôi từng đi xa đến hơn bốn trăm dặm một ngày bởi những tiệm nhất định có loài mà tôi đang săn lùng. Nguồn cung cấp thứ ba là từ những người vốn lai tạo Corydoras. Thuận lợi lớn nhất của việc mua từ một nhà lai tạo đó là bạn sẽ biết về tình trạng của cá vốn được lai tạo và nuôi dưỡng, độ tuổi của chúng và loại thức ăn tốt nhất để nuôi chúng. Điểm cuối cùng vốn là điều hầu như không thể xác định với những cá thể hoang dã nhập khẩu. 6. Khi mua chuột Corydoras có một số điều quan trọng cần lưu ý, để đảm bảo rằng bạn đang chọn những con chất lượng. Sẽ dễ hơn khi liệt kê những con cần tránh rồi bổ sung những điểm tốt sau. a) Mắt sâu (sunken eye), b) đốm đỏ ở bụng, c) bụng tóp, d) sưng mang, e) mất hay rách râu, f) dị dạng. (xem hình dưới) Cá mắt sâu (sunken eye) đã già và hầu như ở giai đoạn cuối của cuộc đời. Những con nổi đốm đỏ ở bụng đều bị nhiễm bệnh đường ruột, mà hầu hết đều nặng. Nên tránh những con như thế này và đừng cố thử bởi vì nhiều khả năng chúng sẽ không sống quá vài ngày. Cá bị teo hay thóp bụng có thể sống sót nếu điều kiện nuôi và thức ăn phù hợp. Tôi vẫn không muốn đụng vào chúng. Mang đỏ/sưng tấy cũng là dấu hiệu bị nhiễm bệnh vốn có hoặc không thể chữa trị, nếu là hàng hiếm và giá cả phù hợp thì tôi sẽ thử, nhưng thường tôi sẽ không đụng đến. Râu của Corydoras là một giác quan rất quan trọng được sử dụng vào việc tìm kiếm thức ăn từ đáy nền, và với cá cái, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sinh sản. Râu sờn rách có thể dẫn tới viêm nhiễm và nấm miệng vì vậy, đây lại là những con mà tôi tránh. Bất cứ con nào thể hiện sự dị dạng hiển nhiên cần phải bỏ; mặc dù chúng có lẽ hoàn toàn mạnh khỏe nhưng chúng có thể chuyển giao sự dị dạng cho hậu duệ của mình. Cá mới nhập về thường bị tổn thương vây, rách hay mất, trong hầu hết trường hợp tổn thương sẽ phục hồi và thường không gây nguy hiểm cho sức khỏe của cá. Bây giờ chúng ta đã thấy những con dưới mức mong đợi, tôi biết bạn sẽ hỏi “vậy một con cá đẹp phải như thế nào”, vâng một con cá chuột Corydoras chất lượng phải có: cơ thể đầy đặn, mắt long lanh, râu đẹp, đủ bộ bảy cái vây, lườn và nắp mang phải phủ đầy giáp ánh kim và sau cùng, nó phải tương đối lanh lợi, dẫu có những loài vốn lanh lợi hơn nhiều so với những loài khác. Râu đẹp. 7. Việc chọn lựa thức ăn rất quan trọng với bất kỳ loài cá nào mà bạn nuôi chứ không chỉ Corydoras. Tôi sử dụng đủ loại thức ăn từ công nghiệp cũng như tự chế và thức ăn tươi sống tuyển chọn. Chương trình nuôi dưỡng của tôi dựa vào khẩu phần chính bao gồm tấm ngâm sẵn (pre-soaked flake) và thức ăn chìm (nên chúng lắng ngay xuống đáy). Viên (tablet) được nghiền trước khi cho các mảnh nhỏ và bột nhuyễn cho cá bột ăn. Thức ăn tươi đến từ nhiều nguồn, tiếp theo là những thứ mà tôi sử dụng, phi thủy sinh = Microworm, whiteworm và trùn đất (earthworm) băm nhuyễn. Thủy sinh = artemia, bo bo, trùn huyết và trùng đỏ. Tất cả thức ăn tươi sống đều được cho với số lượng nhỏ, lý tưởng nhất là vừa đủ ăn trong vòng năm hay mười phút. Cũng có thức ăn đông lạnh vốn rất tốt, nhất là trong những tháng mùa đông khi thức ăn tươi sống có thể khó kiếm, chủng loại thức ăn đông lạnh rất đa dạng từ bọ một mắt (cyclop) cho đến sò và ngày nay, hầu hết các tiệm thủy sinh đều có bán. Đâu mất gì khi thử những thứ này bây giờ và sau này; tôi chẳng thấy có gì mà cá của mình không chịu ăn, mặc dù một số có thể được làm nhỏ đến kích thước mà cá có thể ăn dễ dàng. Vào những tháng mùa hè khi bo bo xuất hiện, tôi sẽ vớt càng nhiều càng tốt, rửa lại bằng nước khi về nhà và trữ đông trong bịch nhựa. Tôi trải đều ra để nó có dạng miếng với độ dày như lát bánh mì (cỡ 10 mm), điều này giúp việc bẻ ra cho cá ăn rất dễ dàng, và mỗi túi đều có đủ bo bo để cho tất cả cá của tôi ăn. Cho ăn hai lần mỗi ngày khi có thể. Nếu thời gian cho phép, bữa sáng sẽ chỉ bao gồm tấm (ngâm sẵn) hay viên. Vào buổi tối, những hồ đã lên lịch thay nước được làm trước rồi mới cho cá ăn, tuy nhiên tất cả các hồ cá bột đều thay nước mỗi ngày trước khi cho ăn. 8. Việc phân biệt giới tính Corydoras không phải lúc nào cũng dễ dàng nhất là cá mới nhập về, vì vậy tôi sẽ giải thích cách làm của mình. Để bắt đầu, có ba điểm mà tôi sẽ tìm kiếm sự khác biệt. Trước tiên là màu sắc, có lẽ là điểm dễ nhất nơi thể hiện sự khác biệt. Với hầu hết các loài Corydoras, không có sự khác biệt đáng kể nào, nhưng ở những loài thể hiện lưỡng hình màu sắc (colour dimorphism), cá đực sẽ có màu sáng và tươi hơn. Tuy nhiên, có rủi ro ở đây bởi vì với một số loài như vậy, khác biệt về màu sắc quá lớn khiến bạn dễ cho rằng mình đang thấy hai loài khác biệt. Cặp C. undulatus. Điều đầu tiên cần làm là hỏi nhà bán lẻ xem chúng có được đưa đến như một loài, nếu họ khẳng định như vậy thì nhiều khả năng chúng thuộc về cùng một loài. Rồi tôi bắt hai cá thể sặc sỡ nhất với một trong số những con ít đẹp bằng. Nếu có bất kỳ nghi ngờ nào thì tôi sẽ bắt số lượng đồng đều nhau. Hầu hết các loài Corydoras thuộc về nhóm “xinh đẹp” đều thể hiện lưỡng hình màu sắc. Điểm thứ nhì mà tôi nhìn vào là vây. Cá đực Corydoras trưởng thành hầu như luôn có gai vây (spine) to và dài hơn cá cái, nhất là vây ngực và ở mức độ nhỏ hơn là vây lưng, với một số loài, sự khác biệt là quá nhỏ đến mức không thể nhận ra. Với một số loài khác, sự khác biệt là rất lớn đến mức chiều dài vây cá đực có thể gấp đôi cá cái. Khi không có sự khác biệt rõ ràng ở vây ngực và vây lưng, thứ mà tôi tìm tiếp là vây bụng. Nếu có bất kỳ sự khác biệt nào ở đây thì vây bụng cá đực dài, hẹp và nhọn hơn cá cái, vốn tròn hơn nhiều và xòe như quạt. Cặp C. barbatus và cá đực C. melanistius. Điểm thứ ba và sau cùng mà tôi nhìn vào là thân, khi nhìn từ bên trên phần thân rộng nhất của cá cái nằm ở ngay phía trước gốc vây bụng. Ở cá đực, phần thân rộng nhất ở ngay hoặc phía sau vây bụng. Khi nhìn từ mặt bên, cá cái có thân tròn rộng hơn, trong khi cá đực trông mảnh dẻ và thuôn hơn nhiều. Còn những đặc điểm khác vốn cũng có thể giúp phân biệt giới tính, chẳng hạn cá đực Corydoras barbatus có râu trên má mà cá cái thì không. Vì vậy, với những loài khó phân biệt, tôi sẽ tìm bất cứ điểm nào để phân biệt chúng. Thỉnh thoảng, khi tôi thấy chẳng có cách nào để phân biệt giới tính, tôi sẽ mua ít nhất sáu cá thể hay nhiều hơn nếu giá cả phù hợp. Một khi bạn sở hữu cá một thời gian và nuôi dưỡng chúng, thì sẽ tương đối dễ phân biệt giới tính. 9. Lai tạo Corydoras tự nó không khó bởi cá thực hiện tương đối dễ dàng, điều khó ngay từ đầu là làm sao để kích thích chúng sinh sản. Có nhiều yếu tố vốn phải đạt trước khi chúng chịu sinh sản. Đôi khi tất cả những gì cần thiết là thay nước có cùng nhiệt độ để hạ chúng xuống (Corydoras pygmaeus). Bước kế tiếp là thay nước hơi mát hơn, năm hay sáu độ F là đủ, để khuyến khích sinh sản, Corydoras aeneus, Corydoras paleatus và Corydoras panda là những loài điển hình vốn phản ứng với việc xử lý bằng nước lạnh. Một khi phương pháp thay nước cơ bản đã áp dụng qua mà mọi thứ vẫn khó khăn thì cần áp dụng phương pháp khác. Điều mà tôi thực hiện khi cố thúc đẩy một loài sinh sản là mỗi lúc chỉ thử một cách, đó là vì cách đầu mà bạn dùng có thể là kích thích đúng. Cách sau có thể chỏi với cách đầu và khiến cá bỏ sinh sản. Việc này có lẽ là chút cảm nhận chung với nhiều người trong các bạn, nhưng thật ngạc nhiên là có bao nhiêu người kể cho tôi tất cả những thứ mà đã áp dụng để thử nghiệm và kích thích Corydoras của mình sinh sản. Khi được hỏi, họ kê ra một loạt sự thay đổi được áp dụng đồng thời. Tôi cũng đề nghị lập các bản ghi chú bởi theo tôi, chúng rất giá trị nhất là khi cố lai tạo những loài khó khăn. Những ghi chú này có thể được tham khảo vào bất cứ lúc nào để biết sự thay đổi được áp dụng, hay dùng để thiết lập chuỗi thay đổi mà bạn nghĩ là có thể kích thích sinh sản. Sau đây là danh sách những điều mà tôi sẽ làm nhằm khuyến khích một loài sinh sản, miễn là chúng đủ điều kiện sinh sản. a) Thay nước hàng tuần với nhiệt độ không đổi. b) Thay nước hai lần mỗi tuần với nhiệt độ không đổi. c) Thay nước hàng ngày với nhiệt độ không đổi. Rồi lặp lại a, b, c mà lần này giảm nhiệt độ xuống từ sáu đến tám độ F [3 đến 4.5 độ C], sau khi thay nước lạnh, lặp lại quy trình tương tự bằng nước ấm hơn từ sáu đến tám độ F. Có một số loài Corydoras vốn chuộng nước ấm hơn mà Corydoras gossei nằm trong số đó. Tôi sẽ thay cùng lượng nước, khoảng 50% mỗi lần, để duy trì sự ổn định. Bước kế tiếp của tôi sẽ là kéo dài thời gian giữa hai lần thay nước từ một tuần lên hai tuần, và rồi ba tuần hay thậm chí lâu hơn, trước hết với nước cùng nhiệt độ, rồi với nước lạnh hơn. Nếu mọi cách đều thất bại thì tôi có thể thử giảm hay tăng độ pH, rồi giảm hay tăng độ cứng. Danh sách những thứ có thể kích thích sinh sản cũng vô tận như thời gian bỏ ra để thực hiện chúng, vì vậy tôi sẽ nói yếu tố chủ chốt để lai tạo Corydoras thành công là kiên nhẫn và thật nhiều kiên nhẫn. 10. Số lượng các loài cá chuột Corydoras hiện là một trăm năm mươi bốn [nay là 161 loài theo fishbase], với nhiều loài vẫn chưa được mô tả đang đổ về các tiệm cá trên cả nước hầu như mỗi tuần, khiến cho lựa chọn của khách hàng gần như là vô tận. =================================== Ghi chú *Nói thêm về cách tính mật độ cá của tác giả: chẳng hạn mỗi con dài 2 inch (SL) [5 cm] – với độ dài tám inch thì nuôi 4 con – từ đó, diện tích đáy là 1 foot vuông = 30 x 30 cm. Số lượng bầy thường là 6 con vì vậy hồ nuôi sẽ là 45 x 45 cm. Đại loại, hồ dài 1 m có thể ngăn đôi để nuôi hai bầy! *Chi Corydoras với hơn 160 loài (fishbase) thuộc về họ Callichthyidae, mà những thành viên là loại cá nheo có giáp (amoured) dựa vào sự hiện diện của hàng tấm xương chạy dọc bên lườn. Theo tiếng Hy Lạp, kory = nón sắt (helmet) và doras = da. Cá sống theo bầy và hiền lành. Việc phân loại đôi khi nhầm lẫn bởi vì còn có rất nhiều loài chưa được mô tả trên thị trường cá cảnh. Để tiện phân biệt và theo dõi, chúng được đánh số theo mã C hay CW; đây là hệ thống được tạp chí cá cảnh DATZ của Đức áp dụng, cùng với mã L (Loricariids), và tỏ ra là công cụ rất giá trị và được sử dụng rộng rãi trong giới cá cảnh trên thế giới. Chúng là loài thở khí cơ hội (facultative air breather) nghĩa là chúng có khả năng hít thở không khí ở mức độ nhất định. Chúng sở hữu đường ruột giàu mao mạch vốn được tiến hóa để hớp không khí và sống sót trong môi trường nghèo ô-xy hòa tan. Trong hồ nuôi, chúng ta hiếm khi nào thấy chúng nổi lên mặt nước để thở trừ phi chất lượng nước xấu đi. Gai vây ngực sắc có thể đâm xuyên qua da người và “vết đốt” có thể rất đau đớn, vì vậy hãy cẩn thận khi bắt chúng. Được biết dịch tiết (secretion) ở hạch nách (axillary gland) tại gốc mỗi gai vây có thể hơi độc. Cá cái động dục cho phép cá đực vuốt ve nó bằng râu trước khi cặp cá vào “vị trí T” cổ điển, theo đó cá đực giữ râu cá cái giữa vây ngực và thân. Rồi nó xuất tinh và tinh trùng đi qua miệng và khe mang của cá cái, hướng tới các vây bụng của nó. Nó dùng những vây này làm thành “cái rổ” mà một trứng được đẻ vào đó (cũng có khi lên đến 4 trứng). Một khi trứng được thụ tinh, nó bơi đi để tìm nơi đặt trứng trước khi lặp lại quy trình này. Nếu sinh sản diễn ra bầy đàn, bạn sẽ thấy nhiều cá đực đuổi theo một cá cái mỗi khi nó đi đặt trứng, với nỗ lực trở thành con kế tiếp được lựa chọn giao phối. *Nhóm chuột cory đốm (spotted cory) gồm Corydoras melanistius (12-13 gai vây lưng), Corydoras brevirostris, Corydoras delphax (7 gai vây lưng), Corydoras schwartzi, và Corydoras ambiacus và Corydoras ephippifer vốn rất khó phân biệt và thường bị nhầm với nhau. Các thông tin về việc lai tạo loài phổ biến nhất Corydoras melanistius bao gồm: pH 6.5, nhiệt độ 24 độ C, thay 50-70% nước hồ mỗi ngày, dùng nước mát, sục khí mạnh. =================================== Các loài cá nheo độc
Mấy con này dọn bể sạch thôi rồi. Nếu nuôi cá nhỏ, bể chỉ cần thả 1-2 con là nó dọn sạch phân dưới đáy bể luôn