Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

George-Gà: Một Đời Đam Mê

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - gà' bắt đầu bởi vnreddevil, 21/10/11.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    [​IMG]

    George-Gà: Một Đời Đam Mê - Trích CỘI RỄ (Alex Haley)
    Dựa theo bản dịch của Dương Tường đăng tại http://vietmessenger.com/books/?title=coire&page=1

    Trò chọi gà vốn phổ biến trong xã hội Châu Âu kể từ thời La Mã, và đặc biệt sau này ở Vương quốc Anh. Gà chọi từ Anh và Ireland theo chân các di dân đến vùng đất mới, nước Mỹ. Ở đấy, trò chọi gà được công nhận về phương diện xã hội và các quý ông được khuyến khích nuôi gà chọi và trở thành chuyên gia trong bộ môn thể thao này. Có thời, nước Mỹ trở thành một trung tâm của các hoạt động và sự kiện chọi gà. Chọi gà thậm chí được tổ chức trong phòng họp của tổng thống. Nghe nói gà chọi suýt trở thành quốc huy. Nó chỉ kém một phiếu so với đại bàng Mỹ! Chọi gà là bộ môn phổ biến thứ nhì sau đua ngựa. Mọi người đều tham gia vào các trận đấu như thế này và mọi tầng lớp xã hội đều sở hữu gà chọi. Các tổng thống Mỹ nổi tiếng như George Washington (tổng thống đầu tiên), Thomas Jefferson (tổng thống thứ 3), Andrew Jackson (tổng thống thứ 7) và Abraham Lincoln (tổng thống thứ 16) đều ham mê chọi gà. Người sau cùng được đặt biệt danh là “Abe Trung Thực” nhờ tài năng của ông trong vai trò trọng tài. Ngày nay, giới sư kê vẫn lưu truyền một câu nói nổi tiếng của ông, vốn được xem như là tuyên ngôn của làng gà: “Chừng nào mà Thượng Đế còn cho phép loài người khôn ngoan, được tạo ra dưới hình hài và tính cách của Ngài, công khai chém giết lẫn nhau trong khi toàn thể thế gian quan sát một cách đồng tình, thì tôi không đồng ý tước đi cái quyền đó ở con gà”.

    Cội rễ (Roots), tác phẩm văn học tái hiện nguồn gốc của người da đen Mỹ của Alex Haley, cũng không nằm ngoài bối cảnh này. Một trong những ông tổ của tác giả là sư kê nô lệ với biệt danh George-Gà. Cậu bé George sớm có niềm đam mê với gà chọi mà theo lời sư phụ Mingo, vốn cũng là một sư kê nô lệ, thì “cung cách nó tợ dư là con nhà gia giáo (well-raised)” hay “thằng nhỏ này quả là sống và thở hít chất gà! (live an breathe chickens!)”. Ở đây, chúng tôi xin trích dẫn tất cả những chương và đoạn liên quan đến George-Gà và các hoạt động chọi gà dựa theo bản dịch của dịch giả Dương Tường. Đồng thời, những “thuật ngữ” liên quan cũng được điều chỉnh và thêm vào phần ghi chú ở cuối bài. Các bậc phụ huynh và nhà đạo đức học (thể nào cũng còn sót vài vị ở đâu đó) hẳn sẽ rất hài lòng khi nhiều thành viên diễn đàn bắt đầu đọc và tìm hiểu rất, rất sâu về lịch sử, ngôn ngữ và văn học Mỹ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/10/16
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    [​IMG]

    Chương 88

    ………

    Và khi George lần đầu tiên nhìn rõ ông già Mingo bí ẩn luyện gà chọi cho ông chủ, chẳng mấy chốc nó đã bắt chước giống hệt dáng đi cà nhắc của ông cụ. Bắt hai con gà vườn (barnyard chicken) chí chóe và nắm chặt chân chúng, George đẩy tới đẩy lui thật nhanh như thể con nọ dọa dẫm con kia, đồng thời ứng tác luôn lời đối thoại: “Đồ khốn nạn xấu xa, nom mầy dư loài ó, tau sẽ cào lòi mắt mày ra!” và con kia khinh mạn đáp lại: “Mầy chẳng là gì ngoài một túm lông, đủ tau ngoạm nửa miệng!”.

    ………

    Do sự sủng ái không ngừng tăng lên của ông chủ và bà chủ đối với George, nó ngày càng được tự do thoải mái mà không cần sự cho phép chính thức của họ. Thi thoảng, đặc biệt vào những chiều chủ nhật khi họ đi chơi bằng xe ngựa, nó tự ý lang thang đây đó, đôi khi hàng tiếng đồng hồ, để mặc những người lớn trong xóm nô nói chuyện với nhau, trong khi nó tò mò thám hiểm mọi xó xỉnh của đồn điền Lea. Một ngày chủ nhật như thế, nó trở về vào lúc sắp sẩm tối và nói với Kizzy rằng nó đã bỏ cả buổi chiều đến thăm ông lão, người trông nom đàn gà chọi của ông chủ.

    “Con giúp ông í bắt một con trống to tướng bị xổng, rồi sau đó con mấy ông cụ í nói chuyện. Mẹ à, con thấy ông í không kỳ cục dư mọi người nói đâu. Mới lị con chưa bao giờ thấy dững con gà dư thế! Dững con thế mà ông í bỉu vuỗn chưa nhớn, nó cứ quang quác và nhảy chồm chồm trong chuồng, tìm cách xông vào nhau để chọi! Ông già để cho con nhặt ít cỏ cho bọn nó ăn, và con làm thế. Ông í bỉu ông í nuôi gà còn vất vả hơn phần đông các bà mẹ nuôi con!” Kizzy nghe vậy cũng hơi tự ái một chút song cô không phản ứng gì, cô cũng vui vui thấy con trai hào hứng thế về mấy con gà. “Ông í bày cho con vuốt (rub) lưng, cổ và chân gà cho nó chọi hay nhất!”

    “Tốt hơn là con tránh xa chỗ í ra, bé ạ!” cô dè chừng. “Con biết ông chủ không cho phép ai ngoài ông già í dính dáng với lũ gà đấy!”

    “Bác Mingo bỉu bác í sẽ xin ông chủ cho con đến đấy giúp bác í cho gà ăn!”

    Sáng hôm sau, trên đường ra đồng, Kizzy kể cho Sarah nghe chuyện phiêu lưu mới của George. Sarah bước tiếp trầm ngâm. Rồi chị nói: “Ta biết cô chả muốn ta đoán số thêm cho cô nữa, nhưng dù sao ta cũng cứ nói chút xíu về George”. Chị ngừng một lát. “Nó chẳng bao giờ thành dư mọi người gọi là nhọ bình thường! Nó bao giờ cũng đi vào cái gì mới và khác thường chừng nào nó còn thở hít”.

    ………


    Chương 89

    “Thưa ông chủ, cung cách nó tợ dư là con nhà gia giáo và xem ra nó khéo tay đấy”, bác Mingo nói vậy, kết luận sự mô tả của bác về thằng bé sống ở xóm nô mà bác quên không hỏi tên.

    Khi ông chủ Lea lập tức đồng ý cho thử thằng bé, bác Mingo rất hài lòng - vì từ nhiều năm, bác đã cần một người giúp việc - nhưng thực ra, không lấy gì làm ngạc nhiên. Bác biết rất rõ là ông chủ đang lo về nỗi người luyện gà (trainer) của mình đã cao tuổi, sức khỏe không bảo đảm nữa; năm, sáu tháng qua bác đã bị những cơn ho tệ hại, càng ngày càng hay xảy ra. Bác cũng biết ông chủ đã hoài công tìm một nô lệ trẻ có triển vọng làm tay luyện gà tập sự ở chỗ các chủ gà khác quanh vùng, tất nhiên là đám này chả có bụng nào muốn giúp y. “Nếu tôi có thằng trai trẻ nào tỏ ra có chút khả năng”, ông chủ kể với bác là có người đã bảo y vậy, “ông nên biết là tôi chả dại gì bán nó đi. Với lão già Mingo nhà ông luyện nghề cho nó, tôi thấy trước là năm, mười năm nữa, nó lại giúp ông thắng tôi!” Nhưng có lẽ lý do chính khiến ông chủ Lea nhanh chóng đồng ý, bác Mingo biết, là mùa chọi gà thường niên của quận Caswell chẳng bao lâu nữa sẽ mở màn bằng cuộc “đá đối đầu” (main) lớn Tân Niên và nếu thằng bé chăm sóc gà tơ, thì bác Mingo có thể dành nhiều thì giờ hơn vào việc biệt dưỡng (conditioning) và huấn luyện (training) những trống hai-năm-tuổi vừa đủ độ trưởng thành vốn sắp được bắt về từ bãi thả (range walk).

    Vào buổi sáng ngày đầu tiên học nghề của George, bác Mingo dạy nó cách cho đám gà con (cockerel), vốn được nhốt trong nhiều chuồng, ăn, mỗi chuồng chứa gà ở độ tuổi và tầm vóc sàn sàn như nhau. Thấy thằng bé thực hiện nhiệm vụ thử thách ấy một cách khả quan, ông lão bèn để nó cho đám “gà tơ” (stag) già dặn hơn ăn, tuy chưa đầy một năm nhưng đã tìm cách chọi nhau từ các chuồng tam giác (triangular pen) của chúng, qua những đường dích-dắc của hàng rào (split-rail fence). Trong những ngày tiếp theo, bác Mingo giữ George gần như ngoài bãi, cho gà ăn ngô xay (cracked corn), cung cấp sạn sạch, vỏ sò, than củi, và mỗi ngày ba lần thay nước suối trong các hộp thiếc.

    George không bao giờ tưởng tượng mình có thể cảm thấy sợ gà – nhất là những con trống tơ đang bắt đầu mọc cựa và trổ lông sặc sỡ, khi chúng vênh váo đi đi lại lại, không biết sợ là gì, mắt long lanh thách thức. Những lúc không bị bác Mingo trực tiếp giám sát, George thỉnh thoảng lại cười to khi thấy mấy con trống tơ đột nhiên ngật đầu ra đằng sau và gáy ngập ngừng, ậm ọe như đang cố đua với tiếng kêu khàn khàn của những lão kê sáu-đến-bảy-năm-tuổi của bác Mingo - mỗi con đều mang những vết sẹo của nhiều trận giao tranh đã qua - mà bác Mingo gọi là “gà mồi” (catch cock) và bao giờ cũng tự tay cho ăn. George hình dung mình như là một trong số trống tơ và bác Mingo như là một trong số lão kê.

    Ít nhất mỗi ngày một lần, khi ông chủ Lea phi ngựa xuôi theo con đường cát vào khu luyện gà, George cố hết sức tránh né, vì nó đã mau chóng cảm thấy ông chủ đối với nó lạnh nhạt biết mấy. George đã nghe thấy cô Malizy bảo là ông chủ thậm chí không cho phép cả bà chủ đến chỗ nuôi gà của mình, nhưng bà ấy cam đoan với ông rằng đó là việc bà kỵ nhất. Ông chủ và bác Mingo thường đi quanh kiểm tra các chuồng gà, bao giờ bác Mingo cũng giữ đúng cự ly tụt lại sau một bước đủ gần để nghe thấy và trả lời mọi điều ông chủ nói giữa những tiếng gáy của đám trống mồi già sứt sẹo. George nhận thấy ông chủ nói năng gần như thân ái với bác Mingo, trái ngược hẳn với cung cách cộc cằn và lạnh lùng của ông ta đối với bác Pompey, chị Sarah và mẹ nó, vốn chỉ là đám lao động ngoài đồng. Thi thoảng, khi cuộc đi tua kiểm tra đưa họ tới khá gần chỗ George đang làm, nó thường nghe hóng được những điều họ nói. “Mingo này, ta định mùa này đưa ba mươi con ra chọi, cho nên ta phải mang từ bãi thả về khoảng sáu mươi con hay hơn nữa”, một hôm ông chủ nói vậy.

    “Vâng, ông chủ. Đến lúc ta thanh lọc (cull) thì phải có hẳn bốn chục con được luyện tốt”.

    Mỗi ngày, đầu George lại ních thêm những câu hỏi, nhưng nó cảm thấy tốt nhất là đừng nên hỏi bác Mingo cái gì nó không có phận sự phải biết. Bác Mingo đạt được một điểm trong cảm tình của thằng bé do chỗ bác có thể giữ mồm giữ miệng không ba hoa, vì những sư kê (cocker) khôn ngoan thường giữ kín nhiều bí quyết. Đồng thời, đôi mắt nhỏ, nhanh nhẹn, lác xệch lác xẹo của bác không bỏ sót một chi tiết nào trong cách George thực hiện công việc của mình. Bác dụng ý ra lệnh rất ngắn gọn, rồi mau lẹ đi khỏi để thử xem thằng bé có thể nắm và nhớ những lời căn dặn nhanh và tốt đến mức nào; bác Mingo hài lòng thấy phần lớn các công việc chỉ cần phải bảo George có một lần.

    Sau một thời gian, bác Mingo nói với ông chủ Lea là bác đồng tình với sự chăm nom và chú ý của George đối với bầy gà - nhưng bác thận trọng dè dặt: “Chí ít trong chừng mực tui có thể nói trong quãng thời gian ngắn này, thưa ông chủ”.

    Bác Mingo hoàn toàn không ngờ đến câu trả lời của ông chủ Lea “Ta đã nghĩ là lão cần thằng bé ở đây suốt. Lều của lão không đủ to, nên lão hãy cùng nó dựng một cái lán đâu đó để nó luôn gần kề lão”. Bác Mingo thất kinh trước cái triển vọng có một kẻ nào đó đột nhiên xâm nhập hoàn toàn nỗi riêng tư mà chỉ có bác và bầy gà chia sẻ với nhau trong hơn hai mươi năm trời, song bác không công khai nói lên ý kiến bất đồng nào.

    Sau khi ông chủ đi khỏi, bác nói với George bằng một giọng chua chát “Ông chủ biểu tau cần mầy ở đây suốt. Tau chắc ông í biết cái gì tau không biết”.

    “Dạ”, George nói, cố giữ vẻ mặt tỉnh bơ. “Dưng mà cháu sẽ ở đâu, bác Mingo?”.

    “Tau sẽ dựng cho mầy một cái lán”.

    Dù rất khoái bầy gà chọi và bác Mingo, George biết như vậy có nghĩa là chấm dứt thời kỳ thú vị của nó ở đại sảnh, phe phảy lông công và giảng đạo mua vui cho ông chủ, bà chủ cùng khách khứa. Ngay cả bà chủ Lea cũng mới bắt đầu tỏ ra ưa nó. Và nó nghĩ đến những thức ngon lành mà nó sẽ không còn được cô Malizy cho ăn ở trong bếp nữa. Nhưng cái phần gay go nhất trong chuyện rời bỏ xóm nô, là việc báo tin này cho mẹ nó.

    Kizzy đang ngâm đôi bàn chân mệt rã rời trong một chậu nước nóng thì George bước vào, mặt u ám khác thường: “Mẹ, có cái con phải nói mấy mẹ”.

    “Chà, tau chặt phát cả ngày, mệt rũ ra thế này, chả muốn nghe gì thêm về gà qué đâu, nói để mầy biết thế!”

    “À, không hẳn đúng là thế”. Nó hít một hơi thật sâu. “Mẹ, ông chủ bẩu con mấy bác Mingo dựng một cái lán và chuyển con xuống đấy”.

    Kizzy chồm dậy, làm bắn ít nước ra khỏi chậu, tưởng chừng như sắp nhảy bổ vào George: “Chuyển mầy làm gì? Mầy cứ ở đây, chỗ trước nay vẫn ở, thì có việc gì?”.

    “Không phải việc của con, mẹ ạ! Ấy là ông chủ!” Nó bước lùi, né khỏi cơn thịnh nộ trên mặt mẹ, giọng ré lên: “Con không muốn rời mẹ đâu!”

    “Mầy chưa đủ nhớn để chuyển đi đâu! Tau cuộc là tại cái lão nhọ già Mingo í xui ông chủ thế!”.

    “Không phải, bác í không xui đâu, mẹ! Là vì con dám chắc bác í cũng không thích thế! Bác í không thích có ai quanh bác í suốt. Bác í bẩu con bác thà ở một mình”. George ước sao có thể nghĩ ra điều gì để nói cho mẹ yên tâm. “Vẻ dư ông chủ đang tốt mấy con, mẹ ạ. Ông í đối xử bác Mingo mấy con tử tế, không dư mấy dững người làm đồng…” Quá muộn, nó nuốt ực một cái, chợt nhớ ra mẹ mình cũng là người làm đồng. Cô túm lấy George lắc lấy lắc để như mớ giẻ, mặt rúm ró vì ghen tức và cay đắng, miệng rít lên: “Ông chủ thiết gì mầy. Ông í có thể là cha mầy, dưng mà ông í chả thiết gì ngoài lũ gà”.

    Cô cũng sửng sốt gần bằng nó vì những gì cô vừa nói.

    “Đúng thế! Và mầy biết thế cũng tốt thôi vì mầy đang tưởng ông í cho mầy ân huệ dư vầy! Ông chủ chỉ muốn mỗi điều là mầy giúp cái lão nhọ điên rồ í chăm nom lũ gà mà ông í tưởng sắp làm giàu cho ông í!”

    George đứng lặng người.

    Cô vung cả hai nắm đấm nện George thùm thụp: “Thế mầy còn lảng vảng quanh đây làm gì?”. Quay người lại, cô vớ lấy mấy thứ quần áo ít ỏi của nó, ném về phía nó. “Cút! Xéo ra khỏi cái lều nầy!”

    George đứng đó như bị rìu bổ. Cảm thấy nước mắt dâng lên và sắp trào ra, Kizzy chạy khỏi lều và lao về phía lều cô Malizy.

    Nước mắt George chảy từng giọt trên mặt. Sau một lúc, không biết nên làm gì khác nó nhét mớ quần áo ít ỏi của mình vào một cái túi và thất thểu quay lại con đường đi xuôi về khu gà chọi. Nó ngủ cạnh một chuồng gà tơ, lấy cái túi kê làm gối.

    Trước lúc rạng đông, bác Mingo quen dậy sớm thấy nó ngủ ở đó và đoán được chuyện gì đã xảy ra. Suốt ngày hôm đó, bác đi trệch khỏi lệ thường, tỏ ra dịu dàng với thằng bé trong khi nó lặng lẽ thui thủi làm nhiệm vụ.

    Trong hai ngày dựng cái lán nhỏ, bác Mingo bắt đầu nói với nó như thể bây giờ bác mới thực sự nhận ra sự có mặt của George vậy. “Nhỏ ạ, cuộc đời mầy rồi phải là dững con gà nầy cho đến khi nó dư gia đình mầy vậy”, một buổi sáng, bác nói độp một cái - đó là điều trước nhất bác muốn in sâu vào tâm trí nó.

    Nhưng George không trả lời. Nó không thể nghĩ đến cái gì khác ngoài điều mẹ nó đã nói với nó. Ông chủ nó lại là bố nó. Bố nó là ông chủ nó. Nó không thể chọn lối nào trong hai ứng xử ấy.

    Khi thấy thằng bé vẫn không nói gì, bác Mingo lại lên tiếng. “Tau biết dững nhọ đằng kia nghĩ rằng tau kỳ cục”… Bác ngập ngừng, “Tau đồ là như vậy”… Rồi bác im.

    George hiểu ra là bác Mingo chờ đợi nó trả lời. Nhưng nó không thể thừa nhận rằng đó đích xác là những điều nó đã nghe được về ông lão. Cho nên nó hỏi cái câu đã nằm trong óc nó từ hôm đầu tiên đến thăm: “Bác Mingo, sao dững con gà nầy lại không dư mọi con khác!”.

    “Mầy nói về dững con gà thuần dưỡng (tame), chỉ biết ăn”, bác Mingo nói, vẻ khinh bỉ. “Dững con ở đây gần tợ dư trở về rừng rú mà ông chủ biểu là ngày xưa bọn nó ở đấy. Thật thế, tau tin nếu quẳng một con gà này vào rừng, nó sẽ chỉ đánh nhau đoạt lấy dững con mái và giết bất kỳ con trống nào khác, y dư thể nó chưa bao giờ ra khỏi rừng vậy”.

    George có những câu hỏi khác nó đã tích lũy sẵn để nêu ra, song nó khó có dịp mở miệng một khi bác Mingo đang đà câu chuyện. Bất cứ con gà chọi nhép nào chưa đến giai đoạn trai tơ mà đã gáy đều phải bẻ cổ ngay, bác nói, bởi vì gáy sớm quá là một dấu hiệu chắc chắn về sự hèn nhát sau này. “Dững con gà đích thực ra khỏi trứng đã mang trong máu chất chọi của cha ông. Ông chủ biểu ngày xưa một người mấy bầy gà chọi của mình cũng dư một người mấy lũ chó của mình bi giờ. Dưng mà dững con gà nầy mang trong mình nhều chất ẩu đả hơn là chó, hay bò tót, hay gấu, hay ói người lền ông ta! Ông chủ biểu đến cả vua và tổng thống cũng chọi gà, vì đấy là môn thể thao lớn nhất!”

    Bác Mingo để ý thấy George đăm đăm nhìn những sẹo nhỏ, tái nhợt nhằng nhịt trên làn da đen của bàn tay, cổ tay, cánh tay bác. Đi về lều, lát sau bác trở lại với một đôi cựa thép cong cong, đầu nhọn như mũi kim. “Khi nào mầy bắt đầu thả gà (handling), tay mầy rồi cũng dư tay tau thôi, trừ phi mày hết sức cẩn thận”, bác Mingo nói và George hồi hộp nghĩ rằng hình như ông lão suy tính đến chuyện một ngày kia có thể để nó lắp cựa cho gà chọi của ông chủ.

    Tuy nhiên, suốt những tuần sau, có những khoảng thời gian dài bác Mingo chẳng chuyện trò gì mấy, vì đã hàng bao năm, bác không nói với ai ngoài ông chủ và lũ gà chọi. Nhưng rồi càng quen với sự có mặt của George ở bên cạnh và nghĩ về thằng bé như người giúp việc của mình – bác càng hay phá vỡ yên lặng của mình để bảo ban nó, hầu như bao giờ cũng đột ngột, về một điều gì mà bác cảm thấy – giúp George hiểu ra rằng chỉ có những con gà chọi được lai tạo (bred), biệt dưỡng và huấn luyện tuyệt với nhất mới có thể thắng trận và kiếm tiền một cách thường xuyên cho ông chủ Lea.

    “Ông chủ chả sợ ai ngoài sới (cockpit)”, một đêm, bác Mingo bảo nó. “Thật tế, ông í thích đấu mấy các ông chủ giầu sụ có thể nuôi dững bầy hàng nghìn con gà để có thể chọn ra hàng trăm con hay nhất đem chọi mỗi năm. Mầy thấy chúng ta chả có bầy to, dưng ông chủ vẫn thắng dững tay giàu ối lần. Họ không thích điều đó là vì ông í xuất thân là cùng đinh (cracker). Cơ mà, có kha khá gà thật hay, mấy lị kha khá may mắn, ông chủ có thể phất lên giầu xụ dư họ”… bác Mingo liết mắt nhìn George. “Mầy nghe thấy tau không, nhỏ? Ối người không hiểu là có thể kiếm được bao dêu tền trong chọi gà. Tau biết chắc một điều là nếu ai cho tau chọn một cánh đồng bông hoặc thuốc lá trăm arce [~40 mẫu] hay một con gà chọi thật hay, thì bao giờ tau cũng lấy con gà. Cả ông chủ cũng thế. Bởi vậy nên ông í mới không bỏ tiền mua hàng lô đất lớn hoặc làm chủ bầy lớn nhọ”.

    Đến năm George mười bốn tuổi, nó mở đầu những ngày nghỉ chủ nhật bằng việc thăm viếng gia đình xóm nô của mình mà nó cảm thấy bao gồm cả cô Malizy, chị Sarah và bác Pompey tới mức không kém mẹ đẻ nó. Ngay cả sau ngần ấy thời gian, nó vẫn phải nói cho mẹ yên tâm rằng nó không hề giận về cái cách mẹ nói cho nó biết ai là bố nó. Nhưng nó vẫn nghĩ nhiều về bố nó, tuy không bao giờ bàn chuyện đó với ai, nhất là ông chủ. Mọi người ở xóm nô, giờ đây, rõ ràng là đều nể vì cương vị mới của nó, mặc dầu vẫn cố làm như không phải thế.

    “Trước tau quấn tã cứt cho cái đít dơ của mầy, bi giờ tau mà bắt được mầy làm bộ làm tịch, tau vuỗn xéo mầy ngay được trong giây phút!”. Một sáng chủ nhật, chị Sarah thốt lên, giả bộ dữ tợn một cách đầy thương mến.

    George nhe răng cười: “Không đâu chị Sarah ạ, em chả làm bộ làm tịch gì sất”.

    Nhưng tất cả bọn họ đều mỏi mòn vì tò mò muốn biết những điều bí mật xảy ra dưới khu cấm, nơi nó ở với bày gà chọi. George chỉ kể cho họ nghe những điều có tính chất thông lệ. Nó bảo là nó đã thấy gà chọi giết chết một con chuột lớn, đuổi một con mèo chạy mất, thậm chí tấn công cả một con cáo. Nhưng, theo nó kể, chọi mái có khi cũng hung dữ như trống và thi thoảng còn gáy như trống. Nó nói ông chủ rất cảnh giác với bọn trộm cắp bởi chỉ cần trứng của gà hay cũng cao giá ra trò, chưa nói gì đến bản thân những con gà mà bọn trộm có thể dễ dàng mang sang bang khác để bán, hoặc thậm chí tự đem đi chọi. Khi George nói bác Mingo kể là ông chủ Jewett, một tay đại phú chơi gà chọi, đã trả tới ba nghìn đô-la một con gà, cô Malizy kêu trời lên: “Lạy Chúa, mua ba, bốn nhọ không đắt bằng một con gà í!”.

    Sau khi nói chuyện thả cửa với họ, cứ khoảng đầu giờ chiều chủ nhật, George lại bắt đầu bồn chồn, rạo rực. Và thoáng chốc, nó lại hối hả trở xuôi con đường cát về với lũ gà của nó. Chậm bước lại khi đi qua những chuồng nằm dọc theo đường, nó bứt đám cỏ xanh non mơn mởn, ném vào mỗi chuồng một nắm và đôi khi đứng lại một lát, thích thú nghe những tiếng “túc, túc, túc” thỏa mãn của những con trống tơ đang nghiến ngấu nuốt. Bọn này giờ được khoảng một năm, đang tới độ trổ hết lông cánh óng ả, mắt rực lửa và bước vào giai đoạn đột ngột gáy oang lên và cay cú hục hặc tìm cách đá nhau. “Ta đưa chúng ra bãi thả để bắt đầu đạp mái (mating) càng mau càng tốt”, cách đây không lâu bác Mingo đã bảo thế.

    George biết điều đó sẽ xảy ra vào lúc bọn trống trưởng thành vốn đã ở ngoài thả bãi được bắt về để biệt dưỡng và huấn luyện cho mùa chọi sắp tới.

    Sau khi thăm thú bọn gà tơ, George thường dùng phần còn lại của buổi chiều để tha thẩn xuống quá phía cuối đường vào đám rừng thông, nơi có những bãi thả. Thi thoảng nó nhìn thấy một con trống trưởng thành cai quản một bầy mái một cách hoàn toàn tự do phóng túng. Nó biết ở đấy có vô khối cỏ, hạt, châu chấu, cào cào và các côn trùng khác cùng với những sỏi nhỏ, tốt cho bộ diều của chúng và nước ngọt, trong mát dồi dào, muốn bao nhiêu cũng có, từ nhiều nguồn suối tự nhiên trong rừng.

    Một buổi sáng rét run người đầu tháng mười một, khi ông chủ Lea đi xe la tới, bác Mingo và George đang đợi cùng với những con gà tơ gáy ỏm tỏi, chí chóe mổ, đã được tập trung vào những giỏ đan (wicker) đậy kín. Sau khi chất lên xe, George giúp bác Mingo bắt con gà mồi già mình đầy sẹo, miệng quang quác mà bác cưng nhất.

    “Nó y hệt như lão, Mingo ạ”, ông chủ Lea cười nói. “Nó làm hết phận sự đấm đá và lai tạo (breeding) trong thời trai trẻ rồi. Giờ chẳng còn thích hợp với việc gì khác ngoài ăn và gáy!”.

    Nhăn răng cười, bác Mingo nói: “Tui bi giờ hồ dư cũng chả gáy gì nữa, ông chủ ạ”.

    Bởi lẽ George kính nể bác Mingo cũng ngang mức nó sợ ông chủ, nên nó vui sướng thấy cả hai ở một tâm thế hồ hởi hiếm có như vậy. Rồi bộ ba trèo trên xe la, bác Mingo ôm con gà mồi ngồi cạnh ông chủ, còn George lắc lư cuối xe, đằng sau những giỏ gà.

    Cuối cùng ông chủ Lea dừng xe ở một quãng sâu trong rừng thông. Ông ta và bác Mingo nghiêng nghé đầu, thận trọng lắng nghe. Rồi bác Mingo nói khẽ: “Tui nghe thấy bọn nó ở đằng sau kia!” Bỗng bác đột ngột phùng má, thổi mạnh vào đầu con gà mồi già và nó vội gáy thật lực.

    Mấy giây sau, từ lùm cây vọng lên một tiếng gáy to, và con mồi già lại gáy tiếp, lông bờm dựng lên. Rồi George sởn da gà khắp người khi thấy con chọi tuyệt đẹp từ ven rừng nhảy bổ ra. Những mớ lông óng ánh nhiều màu giương cao trên thân hình chắc nịch của nó; lông đuôi bóng mượt cong lên. Một bầy chừng chín con mái hối hả chạy tới sợ hãi, vừa bới vừa cục tác, trong khi con trống thả bãi đập cánh hùng dũng và gáy vang một tiếng, đầu ngọ nguậy nhìn quanh tìm kẻ đột nhập.

    Ông chủ Lea nói nhỏ: “Mingo, cho nó thấy con trống mồi đi!” Bác Mingo giơ nó lên cao và con gà thả bãi hồ như bật tung lên không lao thẳng vào con trống già. Ông chủ Lea chuyển động mau lẹ, túm lấy con gà thả bãi giữa đường bay, khéo léo tránh những cái cựa tự nhiên, dài, ác liệt mà George thoáng thấy khi ông chủ thảy nó vào một chiếc giỏ và đậy nắp lại.

    “Giương mắt lên làm gì đấy, nhỏ? Thả một con tơ ra!” bác Mingo quát, như thể trước đây, George đã từng làm việc đó. Nó lóng ngóng mở cái giỏ gần nhất và con gà tơ được thả bay xa khỏi chiếc xe la và đáp xuống đất. Ngập ngừng một thoáng, nó đập cánh, gáy thật to, xòe một cánh xuống và de làm điệu quanh một con mái. Rồi con trống mới của bãi bắt đầu lùa tất cả con mái khác trở vào rừng thông.

    Hai mươi tám con trưởng thành hai-năm-tuổi đã được thay thế bằng các trống tơ một-năm-tuổi khi chiếc xe la trở về ngay trước lúc xẩm tối. Sau khi lập lại mọi thứ, bắt thêm ba mươi hai con nữa ngày hôm sau, George có cảm tưởng như đã làm công việc bắt gà ở bãi thả suốt đời. Giờ đây, nó bận bịu cho sáu mươi trống ăn và uống. Nó thấy là khi không ăn thì chúng gáy và tức tối mổ vào cạnh chuồng, vốn được quây sao cho chúng khỏi nhìn thấy nhau, điều có thể gây thương tích cho một số con trong cơn hăng tiết muốn giao tranh. George ngây ngất ngắm những con chim xinh đẹp, cuồng nộ và hoang dã uy nghi này. Chúng là hiện thân của tất cả những gì mà bác Mingo từng nói với nó về huyết thống anh dũng lâu đời, về cả cấu trúc ngoại hình lẫn bản năng, khiến chúng sẵn sàng đá đến chết với bất kỳ con gà chọi nào khác, bất kể lúc nào, ở bất cứ đâu.

    Ông chủ tin rằng cần phải luyện gấp đôi số gà ông dự định mang ra thi đấu trong mùa chọi. “Một số con dất khoát không hồng hào lên, không ăn, không tập (work) dư dững con khác”, bác Mingo cắt nghĩa cho George, “dững con í ta sẽ loại ra”. Ông chủ Lea bắt đầu đến sớm hơn dạo trước để làm việc cùng với bác Mingo, nghiên cứu cả sáu mươi con, lần lượt từng con, trong nhiều giờ mỗi ngày. Nghe lỏm được những mẩu đối thoại giữa họ, George tập hợp ra rằng họ sẽ thanh lọc những con bị thương ở đầu hoặc thân; hoặc bị điều mà mọ coi là dưới mức hoàn hảo ở mỏ, cổ, cánh, chân hay cấu trúc tổng thể. Nhưng lỗi tệ hại nhất là không thể hiện đầy đủ mức độ hung dữ.

    Một buổi sáng, ông chủ từ đại sảnh tới với một cái hộp bằng các-tông. George quan sát bác Mingo đong lượng bột mì và bột yến mạch, và trộn chúng thành bột nhão cùng với bơ, một chai bia, lòng trắng của mười hai quả trứng mái chọi, một ít chua me (wood sorrel), rau má lông (ground-ivy) và một ít cam thảo (licorice). Bột này được đập thành những bánh tròn mỏng, đem nướng giòn trong một cái lò nhỏ bằng đất. “Bánh này đem lại sức mạnh cho bọn nó”, bác Mingo nói, hướng dẫn George bẻ bánh thành những miếng nhỏ, hàng ngày cho mỗi con ăn ba nắm và cho ít cát vào các cóng nước mỗi khi châm đầy lại.

    “Ta muốn chúng được tập luyện đến mức chẳng còn gì ngoài cơ và xương, Mingo ạ! Ta không muốn một ounce [~28g] mỡ nào ngoài trường đấu!” George nghe thấy ông chủ ra lệnh. “Bọn nó sắp sửa phải tập chạy đến rụng đuôi, ông chủ ạ!” Bắt đầu từ hôm sau, George phải chạy tới chạy lui, kẹp chặt vào nách một trong những trống mồi già của bác Mingo khi nó bị đuổi riết bởi hết trống này đến trống khác trong luyện tập. Theo lời chỉ bảo của bác Mingo, thỉnh thoảng George lại để cho con truy đuổi đến đủ gần để bật lên táp mỏ và đá cắt kéo (scissoring) vào con trống mồi giận dữ kêu quàng quạc.

    Bắt lấy con trống hung hăng đang thở dốc, bác Mingo liền lẹ làng cho nó mổ nghiến ngấu một cục bơ không muối trộn thảo dược (herb) giã nát to bằng quả óc chó. Rồi bác đặt con gà đã thấm mệt lên chút rơm mềm dưới đáy một cái giỏ sâu, chất thêm rơm lên mình nó cho tới đầu và đậy nắp lại. “Bi giờ, nó sắp sửa ra mồ hôi tốt dưới í”, bác giải thích. Sau khi cho con cuối cùng tập xong. George bắt đầu bắt những con đang đổ mồ hôi ra khỏi giỏ. Trước khi George trả chúng về chuồng, bác Mingo lấy lưỡi liếm đầu và mắt từng con, đồng thời cắt nghĩa cho nó: “Làm thế để cho bọn nó quen đi, ngộ dư về sau tau phải hút dững cục máu khỏi mỏ bọn nó để giúp bọn nó vuỗn thở được khi bị tang (hurt) nặng trong cuộc chọi”.

    Đến cuối một tuần lễ, bàn tay và cánh tay trên của George bị xước nhiều vết cựa sắc, đến nỗi bác Mingo phải càu nhàu: “Người ta sắp nhầm mầy là một sư kê mất, mầy không đề phòng gì cả!” Trừ buổi sáng ngày Giáng Sinh về thăm xóm nô, nó gần như không nhận thấy mùa nghỉ lễ trôi qua. Giờ đây, gần đến lúc mở màn mùa chọi gà, những bản năng xung sát của bày gà dâng tới độ sốt cuồng đến nỗi chúng gáy và lồng lộn mổ vào bất kỳ cái gì, vỗ cánh phành phạch. George nghĩ sao mà nó hay nghe thấy mẹ, cô Malizy, chị Sarah và bác Pompey than vãn về số phận của họ; mà không ngờ một cuộc sống biết mấy hào hứng đang tồn tại chỉ cách một quãng đi dạo ngắn, ở ngay cuối đường.

    Hai ngày sau Tết dương lịch, George lần lượt tóm từng con gà chọi, trong khi ông chủ Lea và bác Mingo xén tịt lông đầu, cắt ngắn lông cổ, cánh và hông của từng con, rồi sửa lông đuôi thành hình chiếc quạt ngắn, cong cong. George thấy khó mà tin được là việc cắt tỉa (trimming) lại tôn lên biết bao những thân hình thon gọn, chắc nịch, những cái cổ như mình rắn và những cái đầu to với mỏ khỏe và cặp mắt long lanh của chúng. Mỏ dưới (lower beak) của một số con cũng được cắt tỉa, “phòng khi chúng phải đá lông (mouth hold)” bác Mingo giải thích. Cuối cùng các cựa tự nhiên được cạo trơn và sạch.

    Sáng tinh mơ hôm khai mạc, bác Mingo và George đang dồn mười hai con gà được tuyển chọn vòng cuối vào những lồng vận chuyển hình vuông đan bằng nan gỗ mại châu (hickory). Bác Mingo cho mỗi con ăn một viên bơ trộn với kẹo đường nâu nghiền bột, cỡ bằng quả óc chó, rồi ông chủ Lea đánh xe thổ mộ đến, mang theo một thùng táo đỏ. Sau khi George và bác Mingo chất mười hai lồng gà lên xe, bác Mingo trèo lên ngồi cạnh ông chủ và xe bắt đầu chuyển bánh.

    Liếc nhìn lại đằng sau, bác Mingo lạu bạu: “Mầy đi hay không?” Nhảy thoăn thoắt theo sau họ, George với tới cửa sau xe, tót lên và chui vào. Trước đó, không ai bảo nó đi! Sau khi lấy lại hơi, nó thu mình trong một tư thế ngồi xổm. Tiếng xe cót két hòa lẫn trong tai nó với tiếng gáy, tiếng cục cục và tiếng mổ của lũ gà. Nó cảm nhận sâu sắc lòng biết ơn và kính trọng bác Mingo cùng ông chủ Lea. Và nó lại nghĩ - bao giờ cũng với niềm bối rối và ngạc nhiên - đến cái điều mẹ nó đã nói rằng ông chủ là bố nó, hoặc bố nó là ông chủ, đằng nào cũng vậy.

    Dọc đường, George bắt đầu thấy ở phía trước, hoặc nhô ra từ những đường nhánh, nhiều xe thổ mộ (wagon), xe thồ (cart), xe song mã (carriage), xe đơn mã (buggy), cũng như những người cưỡi ngựa, dân cùng đinh đi bộ mang những bao tải phùng to mà George biết là ở trong có những chú gà chọi được lót rơm làm ổ nằm. Nó tự hỏi không biết trước kia ông chủ Lea có đi bộ để chọi gà như thế này chăng, với con gà đầu tiên mà người ta nói là ông đã trúng giải bằng một tờ vé số (raffle ticket). George thấy phần lớn các xe đều chở một hoặc nhiều người da trắng cùng với nô lệ, và xe nào cũng chở một vài lồng gà. Nó nhớ lại lời bác Mingo, “Dân chơi gà chọi bất kể thời gian hay đường sá xa xôi, khi sắp diễn ra một cuộc đấu lớn”, George tự hỏi liệu một số trong đám cùng đinh chân đất kia, một ngày nào đó, có thể thành chủ nhân một trang trại và một đại sảnh như ông chủ không.

    Sau khoảng hai giờ, George bắt đầu nghe thấy loáng thoáng đằng xa một cái gì vốn chỉ có thể là tiếng gáy văng vẳng của nhiều con gà chọi. Cái hợp xướng kỳ lạ ấy cứ to dần lên khi chiếc xe đến gần một khu rừng thông rậm rạp toàn cây cao. Nó ngửi thấy mùi thơm của thịt nướng; rồi xe của họ lẫn vào giữa đám những xe khác đang xoay sở tìm chỗ đậu. Khắp xung quanh, ngựa, la buộc ở cọc khịt mũi, giậm chân, ngoắt đuôi và nhiều người đang trò chuyện.

    “Tawm Lea!”

    Ông chủ vừa mới đứng dậy trong xe, nhún nhún đầu gối cho khỏi tê chân. George thấy là tiếng gọi phát ra từ đám cùng đinh đứng ở gần đó đang truyền nhau một chai rượu, và mừng rơn thấy ông chủ nó nhận ra ngay. Tay vẫy những người kia, ông chủ Lea nhảy xuống đất và loáng cái đã nhập vào đám đông. Hàng trăm người da trắng - từ những thằng bé túm chặt ống quần bố đến những ông già nhăn nheo - đang xoay quanh họp thành từng tốp trò chuyện. Đưa mắt nhìn quanh, George thấy hầu hết cánh nô lệ đều ở lại trong xe, chừng như đang nhập hội với lũ gà chọi nhốt lồng, còn hàng trăm con gà thì ầm ĩ tựa hồ đang phô diễn một cuộc thi gáy vậy. George thấy những túi ngủ (bedroll) ở dưới nhiều cỗ xe gần đó và đoán là các chủ xe ở rất xa nên sắp sửa phải ngủ qua đêm. Nó có thể ngửi thấy mùi hăng của rượu ngô.

    “Đừng có ngồi há hốc mồm ra đấy nữa, nhỏ! Chúng ta còn phải khởi động (limber) cho gà chứ!” bác Mingo nói, lúc này mới lách được chỗ đậu xe. Cố hết sức dẹp nỗi kích động khó tưởng tượng nổi, George bắt đầu mở những chiếc lồng vận chuyển và lần lượt trao lũ gà lồng lộn mổ túi bụi vào đôi bàn tay đen sứt sẹo của bác Mingo vốn tiến hành xoa bóp chân và cánh của mỗi con. Đón lấy con cuối cùng, bác Mingo nói: “Băm nửa tá quả táo cho nhỏ và nhuyễn. Ấy là thức ăn cuối tốt nhất cho bọn gà nầy bước vào giao đấu”. Rồi luồng mắt của ông lão bắt gặp cái nhìn trân trân, đờ đẫn của thằng bé dán vào đám đông và bác Mingo nhớ lại tâm trạng mình trong lần dự hội chọi gà đầu tiên, cách đây quá lâu, đến nỗi bác không buồn nghĩ tới nữa. “Xéo!” bác quát, “ra khỏi đây mà chạy quanh một tẹo nếu mầy muốn thế, dưng mà phải về trước khi bắt đầu, nghe chưa?”

    Khi tiếng “Vâng!” của nó đến tai bác Mingo thì George đã vượt qua thành xe và biến mất rồi. Luồn lách giữa đám đông chen vai thích cánh, chén chú, chén anh, nó xông bên này sục bên kia, thảm lá thông núng nính dưới đôi chân trần. Nó đi qua hàng tá lồng chứa những con gà gáy nhặng xị bày ra một dãy sắc lông kỳ diệu từ nhạn (snow-white) đến ô ướt (coal-black) với cơ man nào là kết hợp màu sắc ở giữa.

    George đứng sững lại khi trông thấy nó. Đó là một vòng lõm rộng, sâu độ hai feet [~60 cm], thành có lót đệm và nền đất sét pha cát nện của nó được đánh dấu bằng một vòng tròn nhỏ ở chính giữa và hai đường thẳng tắp cách đều từ mỗi bên. Sới! Ngước nhìn lên, nó thấy đám người hăm hở tìm chỗ ngồi trên một mô đất dốc tự nhiên đằng sau sới, nhiều người trong đó chuyền tay nhau những chai rượu. Thế rồi nó giật nảy mình trước tiếng một viên chức (official) mặt đỏ ở sát gần bên dưới, “Các quý ông, chúng ta bắt đầu cuộc đấu gà!”

    George lao thật nhanh trở về như một con thỏ rừng, tới chỗ xe đậu trước ông chủ Lea có một khoảnh khắc. Rồi ông chủ và bác Mingo rảo quanh chiếc xe thổ mộ, vừa thầm thì vừa liếc nhìn những con gà trong lồng. Đứng trên ghế ngồi phía trước xe, George có thể nhìn vượt qua đầu mọi người đến sới. Ở đó, bốn người đang xúm xít bàn bạc, trong khi hai người khác đi về phía họ, mỗi gã ẵm một con gà chọi trong tay. Bất thình lình, những tiếng xôn xao vang lên giữa đám khán giả: “Mười [đô-la] theo con điều (red)!”… “Bắt!” “Hai mươi [đô-la] theo con xám (blue)”… “Đặt năm [đô-la]!”… “Năm [đô-la] nữa!”… “Theo!”… Tiếng cá cược mỗi lúc một to và nhiều trong khi George thấy hai con gà được đem cân, rồi sau đó, được chủ nhân lắp những cái mà George biết chắc là những cựa thép (gaff) sắc nhọn như mũi kim. Nó vụt nhớ là bác Mingo đã có lần bảo nó rằng gà hiếm khi nào được cho đấu nếu một con nặng hoặc nhẹ hơn con kia hai ounce [~56.7 g].

    “Cho gà cắn mổ (bill)!” một người ở ven sới hô. Rồi anh ta cùng hai người khác mau lẹ ra ngồi ngoài vòng, trong khi các chủ gà ngồi xổm trong vòng, bồng hai con đủ gần để chúng mổ sơ lẫn nhau.

    “Chuẩn bị!” Lùi về hai mức (starting mark) đối diện, các chủ nhân đặt gà mình xuống đất, con nọ rướn mình nhằm tới con kia.

    “Thả gà!” (pit)

    Nhanh như chớp nhoáng, đôi gà chọi đâm bổ vào nhau mạnh đến nỗi mỗi con đều bật lại đằng sau, nhưng phục hồi ngay trong vòng một giây, chúng nhảy lên không, bung ra những cặp giò lắp cựa thép của mình. Rơi trở lại nền sới, chúng lại bay lên ngay lập tức, quyện thành một xoáy lốc lông vũ.

    “Con điều bị đâm (cut) rồi!” có người gào lên và George nín thở theo dõi mỗi tay chủ chộp lấy gà của mình khi nó ngừng ngọ nguậy, xem xét rất nhanh rồi lại đặt nó về mức. Con điều tuyệt vọng, bị đâm loay hoay thế nào mà lại nhảy cao hơn địch thủ, và bất ngờ một trong hai chân đá cắt kéo của nó cắm một cựa thép vào óc con xám. Nó rơi xuống với đôi cánh chấp chới co giật, trong cơn giãy chết. Giữa loạn xị những tiếng hò phấn khởi và chửi thề cộc cằn, George nghe thấy trọng tài (referee) lớn giọng thông báo: “Gà của ông Grayson thắng - một phút mười giây trong trận (pitting) thứ hai!”.

    George thở hổn hển. Nó thấy trận đấu tiếp theo kết thúc còn nhanh hơn, một tay chủ gà cáu kỉnh quăng cái xác đẫm máu của con gà thua trận của mình sang bên cạnh như một tấm giẻ. “Gà chết thì chỉ là một mớ lông rối”, bác Mingo đứng ngay sau lưng George nói vậy. Trận thứ sáu thứ bảy gì đó vừa kết thúc thì một viên chức hô, “Ông Lea!”.

    Ông chủ hối hả đi khỏi xe, tay ẵm một con gà, George nhớ là mình từng cho con này ăn, luyện cho nó, ôm nó trong tay; nó cảm thấy ngây ngất vì tự hào. Rồi ông chủ và đối phương đến bên sới, cân gà gà mình rồi lắp cựa thép giữa những tiếng cá cược (betting) ồn ào.

    “Thả gà!”, hai con đâm sầm vào nhau; nhảy lên không, rồi hạ xuống nền sới, mổ điên cuồng, dứ (feinting), cổ chúng uốn éo như rắn, cố tìm bất kỳ một sơ hở nào của nhau. Một lần nữa bật lên cao, chúng đánh nhau bằng cánh – và rồi chúng rơi xuống với con của ông chủ Lea quay lông lốc, rõ ràng bị trúng cựa! Nhưng chỉ mấy giây sau, trong đợt quần thảo trên không tiếp theo, gà của ông chủ đá một chân chết bằng cựa thép của mình.

    Ông chủ Lea chộp lấy gà của mình – vốn vẫn đang cất tiếng gáy đắc thắng – và chạy về xe. George chỉ nghe loáng thoáng: “Gà của ông Lea thắng!...” trong khi bác Mingo nắm lấy con gà đang chảy máu, rà ngón tay khắp mình nó để tìm ra vết rạch sâu ở lồng ngực. Bặm môi vào chỗ đó, bác Mingo hóp má lại, hút mạnh máu đọng ra. Bất thình lình dúi nó xuống trước đầu gối George, bác Mingo quát: “Đái vào nó! Ngay đấy!” Như bị sét đánh, George ngây người, ha hốc miệng: “Đái! Giữ cho nó khỏi dễm trùng!” Lóng ngóng, George làm theo, tia nước tiểu bắn vào con gà bị thương và bàn tay bác Mingo. Rồi bác Mingo nhẹ nhàng ủ nó giữa lớp rơm mềm trong một chiếc giỏ sâu. “Tin chắc là ta cứu được nó rồi, ông chủ ạ! Ông cho con nào chọi tiếp?” Ông chủ Lea chỉ vào một chiếc lồng. “Bắt con gà này ra, nhỏ!”. George vội vã chấp hành, suýt té nhào, và ông chủ Lea hối hả trở lại phía đám đông đang hò reo trong khi kẻ chiến thắng một trận khác được thông báo. Loáng thoáng chìm dưới tiếng gáy khàn khàn của hàng trăm con gà, tiếng người xướng những khoản đánh cá mới, George có thể nghe thấy con gà bị thương túc yếu ớt trong giỏ. Nó vừa buồn, vừa hoan hỉ, vừa sợ hãi, chưa bao giờ nó trải một nỗi khích động như thế. Và vào buổi sáng mát lành ấy, một sư kê mới đã ra đời.
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/5/19
  3. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Chương 90

    “Thử nhìn nó cố lấy dáng đi cho oai vệ hơn bọn gà trống kìa!” Kizzy thốt lên với cô Malizy, chị Sarah và bác Pompey. George sải bước trên con đường để tới cùng họ tiêu dao buổi sáng chủ nhật.

    “Hừm!” chị Sarah lườm Kizzy. “Thôi im đi cô, bọn tui cũng vinh quang vì nó dư cô đấy!”

    Trong khi George tiếp tục đi tới, vẫn còn ngoài tầm tai nghe, cô Malizy kể cho những người kia nghe là mới tối hôm trước thôi, cô đã nghe hóng thấy ông chủ Lea ngà ngà say tuyên bố với một số sư kê được mời dự bữa tối rằng ông ta có một thằng nhỏ mới bốn năm tập sự đã tỏ ra có “thiên bẩm” để đến thời sẽ trở thành “ngang hàng với bất kỳ tay luyện gà nào, dù da trắng hay da đen, ở quận Caswell”.

    “Ông chủ biểu lão già nhọ Mingo nói thằng nhỏ này quả là sống và thở hít chất gà! Theo lời ông chủ, lão Mingo thề thốt rằng, một buổi tối muộn, lão đang đi quanh mạn dưới í thì trông thấy George ngồi lom khom trên một gốc cây, nom đến ngộ. Mingo kể là lão rón rén đến đằng sau thật từ từ, hóa ra George đang ngồi nói chuyện với mấy con gà mái đang ấp trứng, nói sai, lão chỉ là con chó. Lão thề là thằng nhỏ đang nói với bọn gà mái về các trận thắng sau này của lũ gà con sắp nở”.

    “Lạy Chúa!” Kizzy nói, đôi mắt đắm trong hình ảnh đứa con trai đang tiến lại gần. Sau khi ôm hôn đám phụ nữ và bắt tay bác Pompey như lệ thường, bọn họ ngồi xuống những chiếc ghế đẩu được mau chóng mang ra từ các lều. Trước hết, họ kể cho George nghe những tin mới nhất về dân da trắng mà Malizy đã nghe lỏm được trong tuần. Lần này, số tin tức ít ỏi lượm được là, nghe đồn ngày càng có nhiều người da trắng nói năng lạ hoắc từ bên kia bờ nước lớn được tàu chở tới miền Bắc tăng cường thêm cho số người đang chiến đấu giành lấy những công việc trước đây do những người da đen tự do nắm giữ và lời bàn tán về chuyện đưa người da đen xuống tàu chở về châu Phi cũng ngày một tăng thêm. Họ nói đùa George là cứ sống biệt lập như nó với cái lão già kỳ cục ấy, thì đừng hòng biết gì về những chuyện đó hoặc về những sự việc khác đang diễn ra ở phần còn lại của thế giới “trừ phi có đôi ba con gà nào đó kể cho mày nghe” - và George cả cười đồng ý.

    Những cuộc viếng thăm hàng tuần đó không những mang lại cho George niềm vui thích được gặp mẹ và những người kia mà còn khiến nó thoát được vài bữa các món nấu nướng của bác Mingo vốn hợp với gà hơn với người. Cô Malizy và Kizzy biết thừa thế nào cũng sửa soạn ít nhất hai hay ba đĩa thức ăn ưa thích của George.

    Khi câu chuyện bắt đầu uể oải - thông thường là vào khoảng trưa - họ biết là cu cậu đã bồn chồn muốn về, và sau khi họ bắt nó hứa sẽ cầu nguyện thường xuyên, sau một tua ôm hôn, bắt tay nữa, George hối hả đi xuôi con đường, xách giỏ thức ăn về để cùng đánh chén với bác Mingo.

    Mùa hè, George thường hay qua nốt phần còn lại của chiều chủ nhật ở một bãi cỏ chăn gia súc, tại đó bác Mingo có thể trông thấy nó nhảy tung tăng bắt cào cào làm món cao lương mỹ vị cho đám gà con và gà tơ nhốt trong chuồng. Nhưng bây giờ là đầu đông, đám gà hai-năm-tuổi vừa mới được bắt về từ bãi thả để tập luyện, và George đang cố tìm cách cứu vớt một trong số nhiều con mà bác Mingo và ông chủ cảm thấy có lẽ quá hoang dã và nhát người (man-shy), khó bề thích nghi tốt với việc luyện tập và nhiều khả năng bị thanh lọc như đồ bỏ. Bác Mingo cảm mến và thích thú theo dõi George cưỡng bách kiềm chế con gà tơ giãy giụa, kêu la, cắn mổ, và bắt đầu dỗ dành nó, thổi nhẹ vào đầu và cổ nó, cọ mặt mình vào mớ lông bóng bẩy, xoa bóp mình mảy, chân, cánh nó - cho đến khi nó thực sự bình tâm lại.

    Bác Mingo mong George gặp may, song bác hy vọng nó nhớ những điều bác bảo ban nó về việc đặt vận may vào một con gà không đáng tin cậy. Việc lai tạo và phát triển bầy gà chọi chất lượng của một sư kê có thể là sự đầu tư cả đời và nó có thể bị mất sạch chỉ trong một ván bài cảm tính. Bạn đơn giản không thể liều đem chọi một con gà trừ phi mọi nhược điểm tìm thấy phải được sửa chữa hẳn. Và nếu nó không ổn, thì lúc này George phải học được cách thật bình thản vặn cổ một con gà chọi. Nó đã đi đến chỗ hoàn toàn đồng ý với quan điểm của ông chủ và bác Mingo rằng những con duy nhất đáng giá là những con mà việc huấn luyện và biệt dưỡng triệt để của chúng đi đôi với bản năng hung dữ và dũng cảm, điều thôi thúc chúng thà chết gục trên sới chứ không chịu bỏ cuộc.

    George rất thích khi gà của ông chủ giết được địch thủ nhanh chóng mà không hề bị thương, đôi khi chỉ trong vòng ba, bốn mươi giây, nhưng trong thâm tâm - tuy nó ắt chẳng bao giờ hé ra điều này với bác Mingo hoặc ông chủ Lea - không gì có thể sánh với nỗi xúc động rộn ràng khi xem một con gà mình đã góp phần nuôi dạy từ lúc bé tí, chọi chí chết với một con khác cũng cỡ quán quân, cả hai cùng loạng choạng, tơi tả và máu me, mỏ há hốc, lưỡi thè lè, cánh kéo lết trên nền sới, mình và chân run rẩy, cho đến lúc rốt cuộc cả hai đều gục xuống hẳn; rồi trong khi trọng tài đang đếm đến mười, con gà của ông chủ, bằng cách nào đó, thu được chút hơi sức tàn, vùng đứng dậy và tung ra một nhát cựa chí tử.

    George rất hiểu sự gắn bó sâu sắc của bác Mingo với năm hay sáu con trống mồi sứt sẹo mà bác coi gần như là cục cưng - đặc biệt là con mà bác bảo là đã đem lại phần thắng cho ông chủ trong cuộc cá lớn nhất sự nghiệp chọi gà của ông ta. “Cuộc chọi ghê gớm nhất tau từng thấy!”, bác Mingo vừa nói vừa gật gật đầu về phía con lão tướng một mắt ấy.

    “Ấy là hồi nó còn thanh xuân, áng chừng ba, bốn năm trước khi mầy đến đây. Chả biết làm sao ông chủ được tham dự vào cuộc đá đối đầu (main) lớn Tân Niên năm í, được ủng hộ bởi một số ông chủ thiệt giàu ở quận Surrey, Virginia. Họ bảo là không kém hai trăm gà tham gia chọi với mười ngàn đô-la tiền độ (main stake), với dững khoản cáp ngoài (side bet) không dưới trăm đô-la. Thế, ông chủ mấy tau mang hai mươi gà đi. Tau nói cho mày nghe, hai mươi con gà đều sẵn sàng! Bọn tau đánh xe chở đi mấy ngày tới đó, dọc đường cho gà ăn, uống trong lồng mới lị xoa bóp cho bọn nó. Thế, đến gần hết cuộc thi đấu, bọn tau thắng mấy trận, dưng lại thua quá nhiều trận khác, khó lòng ăn món tiền độ í được, thành thử ông chủ dư phát điên phát cuồng. Thề rồi ông í được biết là bọn ta phải chọi mấy cái con mà người ta biểu là đệ nhất mãnh kê ở Virginia. Mày phải nghe người ta hò hét đặt cược vào con gà í mới biết là thế nào.

    “Ờ, được!” ông chủ vớ lấy chai rượu, tợp vài tợp rồi mặt đỏ rừ cả lên cật lực! Và trong cái đám gà còn sót lại ông ấy mới chọn cái con ó già mày đang nhìn kia kìa. Ông chủ cặp con gà í vào nách và bắt đầu đi quanh sới, thề tướng lên rằng ông ấy không từ chối khoản đặt cá của ai hết! Ông í nói là ông í bắt đầu tay trắng, nếu có kết thúc trắng tay thì cũng chả có gì là lạ! Nhỏ này, để tau nói cho mày nghe! Cái con thịt già lông cộc (pinfeather) kia bước vào sới í và tí nữa không ra khỏi, nhưng mà con kia thì chết! Các trọng tài báo rằng hai con đã cố sức giết nhau trong gần mười tư phút!” Bác Mingo nhìn con trống già với vẻ hoài cổ nồng hậu. “Nó bị thương nát mình mẩy, máu chảy nhiều đến nỗi muốn chết, cơ mà tau không chợp mắt tí nào kì đến khi cứu được nó!”

    Bác Mingo quay về phía George. “Nói thật, nhỏ ạ, có cái này đáng ra tau phải dồi vào đầu mầy cẩn thận hơn mới đúng – mầy phải làm mọi cái có thể để cứu dững con bị thương. Ngay cả dững con khá may để giết địch thủ nhanh chóng, rồi đứng đấy gáy tướng lên, làm dư sẵn sàng chọi tiếp, dều, mình cũng có thể mắc lừa! Hễ mang nó trở về xe là phải khám khắp mình nó ngay lập tức, thật kỹ! Có khi chỉ mấy nhát cựa làm xây xát nhỏ cũng có thể dễm trùng. Bất cứ vết đâm nào, mày cứ đái đại vào cho tau. Nếu có chảy máu, mày đắp lên một cái mạng dện vo thành búi hay một dúm lông bụng mềm của thỏ. Nếu mầy không làm thế, thì hai đến ba ngày sau, gà mầy bắt đầu nom dư teo lại, dư cái dẻ mềm dũn, rồi chả mấy chốc, gà mày chết. Gà chọi, tau nghe nói, cũng dư ngựa đua. Bọn nó cứng rắn đấy, cơ mà đồng thời cũng lại là dững sinh linh hết sức mong manh.”

    George có cảm giác như bác Mingo đã dạy nó một nghìn điều, vậy mà hàng nghìn điều khác vẫn còn trong đầu bác. George đã cố gắng tìm hiểu mà vẫn không sao nắm được làm thế nào bác Mingo và ông chủ có thể cảm thấy những con gà nào sẽ tỏ ra khôn ngoan, táo tợn và kiêu dũng nhất trong sới. Đó không đơn giản là những thứ mà bạn có thể nhìn thấy, mà giờ đây, ngay cả George cũng học để nhận ra: lưng rộng, ngắn lý tưởng với ngực nở, đầy đặn thuôn dần thành một cái lườn mảnh, thẳng và một cái bụng nhỏ, chắc nịch. Nó biết rằng cánh tốt, vững chãi, tròn xương phải có lông bóng bẩy, to rộng và cứng quản (hardquilled) vốn có xu hướng giao nhau bên dưới cái đuôi nhỏng lưng chừng (median-angled); rằng những chiếc giò cơ bắp, mập, ngắn phải xoạc rộng, với những cựa khỏe cách đều nhau trên bàn chân vững chãi mà ngón thới dài của nó phải xòe hẳn về phía sau và áp xuống mặt đất.

    Bác Mingo thường mắng George về tội trở nên mê thích một số con đến nỗi dường như quên cả những bản năng rừng rú của chúng. Thi thoảng, một con gà chọi được cưng đang ngoan ngoãn nằm trong lòng George, chợt nhìn thấy một trong những con mồi già của bác Mingo, bèn gáy inh ỏi, vùng khỏi tay George, hùng hổ đuổi con gà già khiến George phải rượt theo ách chúng lại trước khi con nọ giết chết con kia. Bác Mingo cũng dặn đi dặn lại George phải kiềm chế xúc động của mình tốt hơn mỗi khi một con gà của nó bị giết trên sới; nhiều lần, anh cu George cao to vạm vỡ đã òa lên khóc. “Không ai có thể mong trận nào cũng thắng, tau đã biểu mày thế không biết bao dêu lần rồi!” bác Mingo nói.

    Bác Mingo cũng quyết định nói cho George hay rằng mấy tháng nay bác vẫn biết cứ sau khi trời tối mịt không bao lâu, cu cậu lại lẩn mất biến, mãi rất khuya mới trở về, gần đây kéo đến gần tận sáng. Bác Mingo chắc cái đó có liên quan với việc George đã có lần làm ra vẻ thản nhiên kể rằng một hôm cùng với ông chủ Lea đến cối xay bột, nó có gặp một cô hầu đại sảnh khá xinh và da gần như nâu vàng tên là Charity ở đồn điền kề bên. “Bao dêu năm ở đây, con mắt già, cái tai già của tau giống dư tai mắt mèo í. Ngay đêm đầu mày lẻn đi, tau đã bết”, bác Mingo nói với anh chàng học việc ngỡ ngàng. “Dào, tao chả phải hạng đi chõ mũi vào việc người khác, cơ mà tau nói mầy nghe cái nầy. Mầy phải bảo đảm thật chắc chắn, chớ để ba cái thằng tuần cha tuần bố da trắng bắt được, là vì nếu chính chúng không đánh mày sống dở chết dở, thì chúng cũng mang mầy về đây, mà mầy đừng có tưởng ông chủ không quất roi vào đít mầy nhớ!” Bác Mingo đăm đăm nhìn qua bãi cỏ thả gia súc hồi lâu, rồi mới nói tiếp: “Mầy nhận thấy tau không biểu thôi đừng lỉnh đi nữa chứ?”.

    “Thưa bác, vâng”, George cung kính nói.

    Trong một lát im lặng nữa, bác Mingo ngồi xuống một gốc cây cụ thích, hơi ngả người về phía trước và bắt chân chữ ngũ, hai tay ôm đầu gối. “Nhỏ! Tau nhớ hồi trước tau cũng có lần đầu bết ra con gái là thế nào…” và một ánh sáng mới len vào trong mắt bác Mingo, trong khi những nét già nua dịu hẳn lại. “Là cái cô gái cao, dài í, cô ta còn lạ nước lạ cái, khi ông chủ cô í mua một chỗ ngay cạnh đồn điền ông chủ tau”. Bác Mingo dừng lại, mỉm cười. “Tau tả cô í thế nào cho khéo nhất nhỉ, ờ, cánh nhọ hơn tuổi tao bắt đầu gọi cô í là “Con Rắn Đen…”, bác Mingo tiếp tục kể, nụ cười mỗi lúc một mở rộng chừng nào bác hồi tưởng lại - và bác hồi tưởng lại khá nhiều điều. Nhưng George đang quá buồn bực vì nỗi bị bắt quả tang, nên xấu hổ trước bất cứ điều gì bác Mingo đang kể với nó. Dù sao cũng thật rõ ràng là nó đã đánh giá thấp ông lão về hơn một phương diện.
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/10/16
  4. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Chương 91

    ………

    Nhưng vấn đề màu da của George - và duyên do như thế nào - giờ đây bị che lấp bởi nỗi thất vọng khi nhận ra rằng cuộc mưu toan nổi dậy ở Charleston xa xôi nhất định sẽ trì hoãn việc trình bày một ý tưởng mà nó đã phát triển rất kỹ trong đầu bao lâu nay. Trên thực tế, sau gần hai năm, cuối cùng nó đã đi đến quyết định là thử nêu ý đó với bác Mingo. Nhưng bây giờ mà nói với bác ấy cũng chẳng nghĩa lý gì, vì toàn bộ vấn đề tùy thuộc ở chỗ ông chủ Lea có tán thành ý kiến đó hay không, và nó biết ông chủ Lea vẫn còn giận dữ, khó bề tiếp cận để hỏi han điều gì trong một thời gian nữa. Tuy sau độ một tuần, ông chủ thôi không mang theo khẩu súng trường (shotgun) nữa, mỗi ngày ông ta chỉ kiểm tra sơ bầy gà, và sau khi nghiêm nghị dặn dò bác Mingo, lại phóng ngựa đi, mặt vẫn hầm hầm như lúc đến.

    ………

    Sáng ra, George nói với bác Mingo: "Đêm qua, cháu ghé thăm mẹ cháu, cô Malizy kể cho cháu nghe dững chuyện cô í nghe ông chủ nói mấy bà chủ về vụ nổi loạn nọ"… Tuy không chắc bác Mingo có tin câu chuyện đó hay không, nó cứ kể tiếp những điều Charity đã nói, và ông lão nghe rất chăm chú. Để kết thúc, George hỏi: "Làm sao mà dân nhọ ở quanh đây lại bị bắn vì chuyện gì gì đó ở mãi tận South Ca'liny [Carolina], bác Mingo?".

    Bác Mingo nghĩ một lúc rồi mới nói: "Tất tật người da trắng sợ dân nhọ ta lúc nào đó tổ chức lại mấy nhau cùng nổi dậy"… Bác khịt mũi giễu cợt. "Cơ mà dân nhọ thì chả bao giờ làm gì cùng mấy nhau". Bác ngẫm nghĩ một lát nữa. "Cơ mà cái chuyện bắn, giết mầy nói rồi sắp êm đi, dư bao giờ cũng vẫn vậy, khi nào họ giết và ruồng bố nhọ tạm đủ, khi nào họ làm một lô một lốc dững luật lệ mới, khi nào họ chán ngấy phải trả công không cho hàng sâu hàng sốc dững đám da trắng nghèo hèn làm tuần cha".

    "Tất cả dững cái đó mất bao lâu?" George hỏi, vừa nói xong đã thấy đó là một câu hỏi ngu xuẩn biết mấy và cái lườm nhanh của bác Mingo chứng tỏ điều đó.

    "Phải, rành là cháu hỏi thế thì ai trả lời được nhỉ!" George im bặt, quyết định chờ đến khi nào mọi sự trở lại bình thường với ông chủ Lea, mới nêu ý kiến của mình với bác Mingo.

    Trong vài tháng sau, ông chủ Lea bắt đầu dần dần trở lại cư xử ít nhiều giống như con người cũ - gắt gỏng hầu hết thời gian, nhưng không nguy hiểm. Và ít lâu sau, một hôm George quyết định là đã đúng lúc.

    “Bác Mingo ạ, từ lâu cháu đã nghên cíu cái này”… nó mào đầu. “Cháu tin rằng cháu có một ý có thể giúp cho gà của ông chủ thắng nhiều trận hơn bi giờ”. Bác Mingo nhìn, tựa hồ một dạng điên loạn đặc biệt nào vừa nhiễm vào gã giúp việc mười-bảy-tuổi vạm vỡ của mình, người vẫn nói tiếp. “Cháu đã năm năm đi các cuộc chọi gà lớn với bác và ông chủ. Áng chừng hai mùa trở lại đây, cháu bắt đầu nhận thấy một điều mà từ đấy cháu đã theo dõi thật sát. Xem ra như dững sư kê khác nhau, bầy gà của muỗi ông chủ đều có đòn lối (fightin’ style) riêng…” Cọ cọ mũi đôi giày thô vào nhau, George tránh không nhìn vào con người đã luyện gà chọi từ bao lâu trước khi nó ra đời. “Chúng ta luyện cho gà của ông chủ thật khỏe, thật bền hơi (wind), để thắng nhiều trận chỉ nhờ dai sức hơn dững con kia. Dưng cháu đã đếm kỹ - phần lớn dững lần ta thua là khi có con nào đó bay cao hơn gà của ông chủ và đâm cựa từ bên trên vào ngay đầu. Bác Mingo ạ, cháu chắc nếu gà ông chủ cánh khỏe hơn, dư cháu tin ta có thể làm được thế bằng một loạt bài luyện cánh đặc biệt thì cháu tin là chúng sẽ nhảy cao hơn dững gà khác và giết được nhiều hơn cả bi giờ”.

    Dưới vầng trán nhăn nheo, cặp mắt sâu của bác Mingo nhìn soi mói lớp cỏ giữa hai đôi giày của George và của bác. Hồi lâu bác mới nói: “Tau thấy mầy định nói gì rồi. Tau cho là mầy phải nói mấy ông chủ”.

    “Nếu bác cảm thấy thế, thì bác có thể nói với ông í được không?”.

    “Không. Mầy đã nghĩ ra. Ông chủ nghe mầy nói cái í cũng bằng dư nghe tau”.

    George cảm thấy nhẹ hẳn người vì ít nhất bác Mingo cũng không cười chê ý kiến đó, nhưng đêm đó, nằm thao thức trên chiếc nệm vỏ bắp hẹp, George cảm thấy ngần ngại và sợ nói với ông chủ Lea.

    Sáng thứ hai, khi ông chủ xuất hiện, cố gắng tự chủ, George lấy hơi thật sâu và gần như bình tĩnh nhắc lại những điều đã nói với bác Mingo và nói thêm chi tiết về đòn lối riêng của mỗi bầy gà… “Và nếu ông để ý, thưa ông chủ, đám gà của ông chủ Graham đánh lối nhanh, ồ ạt. Nhưng gà ông chủ MacGregor thì lại đánh thực thận trọng, tợ dư dè dặt (wary-like). Hoặc gà của đại úy Peabody thì đá chụm chân, còn gà của ông chủ Howard lại đá cắt kéo (scissor) với hai chân dang rộng. Gà của ông chủ Jewett giàu xụ í thường nạp thấp, và chúng mổ dữ khi ở dưới đất, và bất cứ con nào mà chúng nắm lông (beak hold) được ngon lành đều chắc chắn ăn cựa ngay tại chỗ”… Tránh nhìn vào mặt ông chủ, George không thấy vẻ chú ý cao độ của ông ta. “Thưa ông chủ, điều cháu muốn nói ang áng là dư thế, nếu ông đồng ý để cháu với bác Mingo cho gà ông tập cả loạt bài luyện cánh khỏe mà bọn cháu có thể nghĩ ra được, thì dám chắc chúng sẽ nhảy cao hơn lũ kia để đâm cựa từ bên trên và hy vọng không ai mau chóng bắt kịp”.

    Ông chủ Lea nhìn George trừng trừng như chưa từng thấy nó bao giờ. Trong những tháng còn lại trước mùa chọi sắp tới, ông chủ Lea bỏ nhiều thời gian hơn bao giờ hết ở khu vực luyện gà, quan sát và đôi khi tự tay tham gia cùng với bác Mingo và George tung gà lên trên không mỗi lúc một cao. Mỗi lần rơi xuống, chúng đập cánh điên cuồng, cố đỡ cho khối trọng lượng từ năm đến sáu pound [2.3-2.7kg], nhờ đó cánh ngày càng khỏe.

    Như George đã tiên đoán, mùa chọi gà năm 1823 mở màn và diễn tiến qua các cuộc đối đầu (main) liên tiếp, mà xem ra không ai phát hiện tại sao hoặc làm thế nào mà gà Lea đạt được một tỷ lệ trận thắng cao hơn cả năm ngoái nữa. Đến cuối mùa chọi, cựa thép của chúng đã đâm chết ba-mươi-chín con trong số năm-mươi-hai địch thủ.

    Khoảng một tuần sau, một buổi sáng, ông chủ Lea tới - rất hân hoan - kiểm tra quá trình bình phục của nửa tá gà hạng ưu của ông vốn đã bị thương nặng trong mùa thi đấu.

    “Con này không chắc có qua khỏi, ông chủ ạ”, bác Mingo chỉ vào một con rũ rượi và tơi tả đến nỗi ông chủ Lea phải vội vàng gật đầu đồng ý. “Cơ mà tui hy vọng những con ở trong hai cái chuồng bên này sẽ khỏi tốt đến nỗi ông lại có thể cho nó ra chọi trong mùa tới cho mà xem”. Tiếp đó, bác Mingo khoa tay chỉ ba con cuối cùng đang dưỡng bệnh. “Những con này sẽ chả bao giờ đủ hoàn hảo để dự các cuộc đối đầu lớn nữa, cơ mà ta có thể dùng làm trống mồi, nếu ông chủ muốn, hoặc đem chúng làm thịt cũng tốt”. Ông chủ Lea tỏ ra hài lòng với sự tiên đoán bệnh tình ấy và đã bắt đầu đi về phía con ngựa thì bỗng quay lại, thản nhiên bảo George: “Những đêm mày lẻn khỏi đây đi mò gái, tốt hơn là mày nên thật cẩn thận đề phòng cái thằng nhọ tệ hại cũng mê cùng một con ấy”…

    ………
     
  5. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Chương 92

    Một sáng chủ nhật, khi ông chủ Lea xuất hiện để làm công việc thường ngày kiểm tra đàn gà thì George đã đi về thăm xóm nô như mọi tuần. Đó là lúc tốt nhất. Sau khi dạo quanh nói chuyện chọi gà một lúc, bác Mingo nói như thể vừa mới nảy ra ý nghĩ đó: “Ông chủ ạ, ông cũng biết mùa nào ta cũng loại mười lăm, hai mươi gà còn tốt hơn ối con các người khác vuỗn mang ra chọi. Tui tin là ông có thể làm được tốt tền ngoại phụ nếu ông để thằng nhỏ í đem dững con bị loại của ông dự các cuộc đá cáp (hack fight)”.

    Bác Mingo biết rất rõ rằng cái tên Tom Lea, trong khắp cả chiều dài chiều rộng quận Caswell, tượng trưng cho sự phất lên của một người da trắng nghèo thành một sư kê (cocker) quan trọng và nổi tiếng, người vốn xuất thân là tay đá cáp với một con gà hay. Hơn một lần, y đã nói với bác Mingo là y xiết bao trìu mến nhìn lại những ngày đầu đói rét ấy, tuyên bố rằng những rạo rực buổi ấy chí ít cũng ngang với tâm trạng xúc động thú vị của y trong mọi cuộc “đá đối đầu” (main) lớn mà y đã tranh đua kể từ đó. Những khác biệt đáng kể duy nhất - ông chủ Lea nói - là các cuộc “đá đối đầu” lớn bao gồm một lớp người cũng như gà chọi ưu đẳng hơn và các khoản tiền đánh cá cao hơn gấp bội; người ta có thể thấy những sư kê giàu thật là giàu được - hoặc mất - cả gia tài cơ nghiệp trong vòng một trận đấu. Các cuộc đá cáp là dành cho những người chỉ có thể đưa ra chọi một hoặc hai hoặc ba con, thường thường là gà hạng-nhì hay hạng-ba – dân da trắng nghèo, da đen tự do hoặc nô lệ mà túi tiền của họ chỉ có thể cá cược trong tầm từ hai-mươi-lăm cent đến một đô-la, với tối đa cỡ hai mươi đô-la có lẽ chỉ khi nào tay đá cáp nổi điên và đặt hết của cải mà hắn có trên đời.

    “Điều gì khiến lão nghĩ rằng nó có thể thả gà trong sới?” ông chủ Lea hỏi.

    Bác Mingo nhẹ hẳn người khi không thấy ý kiến nào phản đối đề nghị của bác: “À, ông biết đấy, thằng nhỏ í theo dõi sát các cuộc đấu, đồ rằng nó không bỏ sót động tác nào của ông ngoài sới trong năm, sáu năm nay, ông chủ ạ. Và cái í đem cộng với cái khiếu gà bẩm sinh của nó, tui tin chắc nó chỉ cần được dạy bảo thêm chút ít thôi. Mà cho dù có thua, thì cũng chỉ mất những gà bị loại trong số ta có ở đây thôi, cách nào thì ông cũng chả mấy dùng đến bọn nó nữa, ông chủ à”.

    “Ư hự” ông chủ lẩm bẩm, xoa cằm vẻ tư lự. “Thôi được, ta thấy cái đó không có gì hại. Ừ, sao lại không bịt cựa (buff) cho mấy con gà loại (cull) và giúp nó tập chọi suốt mùa hè nhỉ? Nếu đến mùa sau, nó ra dáng khơ khớ, phải, ta sẽ gửi nó chút tiền để đánh cá vài trận”.

    “Nhất định rồi, thưa ông chủ!” bác Mingo mừng rơn, vì hàng tháng nay, trong sự biệt lập như giữa rừng sâu của khu gà chọi, bác và George đã cho đám gà loại chọi thử, tất cả đều được bọc cựa bằng một thứ bao da nhẹ do bác Mingo sáng chế [để tránh gây tử thương]. Vốn là người cẩn thận, ông lão không mạo hiểm gợi ý với ông chủ trước khi tự mình xác định chắc chắn rằng gã học việc tài ba tỏ ra có tiềm năng chân chính để phát triển thành một nài gà (handler) thực sự giỏi. Trong thâm tâm bác nghĩ, với kha khá kinh nghiệm đá cáp, một ngày kia George có thể trở thành một chuyên gia như ông chủ Lea trong việc thả gà (handling) tại sới. Như bác Mingo đã nói, thậm chí gà loại từ một đàn tốt như đàn của ông chủ, cũng hơn khối những con thường được thả (pitted) trong những cuộc đá cáp mùa nào cũng được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau, đột xuất và không chính thức, ở khắp quận. Chung quy, bác Mingo thấy hầu như chẳng có cách nào khiến George thua cả.

    “Thế nào nhỏ, mày chỉ bết đứng há hốc mồm ra đấy thôi ư?” bác Mingo hỏi vậy khi bác báo tin cho George, chiều hôm đó.

    “Cháu chả còn biết nói gì”.

    “Tau chưa bao nghĩ mình còn sống tới ngày thấy mày không có gì để nói”.

    “Cháu… quả không biết cảm ơn bác dư thế nào cho phải”.

    “Có bao dêu răng mày phô ra hết dư vầy, thôi khỏi cần cám ơn. Ta bắt tay vào việc thôi”.

    Mùa hè ấy, hàng ngày, George và bác Mingo bỏ ra ít nhất một giờ vào lúc chiều muộn, ngồi xổm ở hai bên đối diện nhau của một sới tập, vốn đường kính và chiều sâu nhỏ hơn kích thước bình thường nhưng cũng đủ để luyện tập. Sau nhiều tuần ông chủ xuống quan sát một buổi tập. Kinh ngạc trước sự mau lẹ và phản ứng sắc nhạy bên sới mà George tỏ ra trong khi thả gà, ông ta bèn mách nước cho gã một số ngón riêng của mình.

    “Mày muốn gà mày nhảy trước chứ gì? Nom tao đây”. Cầm lấy con gà của bác Mingo, ông ta nói: “Được, trọng tài đã hô “Chuẩn bị!” rồi. Mày đang ở đây giữ gà mày - nhưng đừng có nhìn nó! Hãy dán mắt vào môi trọng tài! Muốn biết đích xác đến một phần tích tắc khi nào hắn sắp nói: “Thả!” (pit) chứ gì? Đó là khi môi hắn bặm chặt vào nhau”… Ông chủ Lea mím môi. “Đúng lúc ấy mày buông tay ra - mày sẽ nghe thấy “Thả!” ngay khi gà mày lao ra đầu tiên!”.

    Một số buổi chiều, sau khi luyện tập xong và nhốt những con gà loại về chuồng, bác Mingo ngồi nói cho George biết là trong đá cáp cũng có thể đạt được vinh quang và tiền tài. “Hệt dư đám da trắng nghèo hò la cổ vũ cho ông chủ thắng cuộc, tau đã thấy ối nhọ được cổ vũ ở các cuộc đá cáp lớn. Và trong một trận thắng, có thể được tới mười mười hai đô-la, có khi hơn nữa nhỏ ạ!”.

    “Cháu chả bao giờ có lấy một đô-la, bác Mingo ạ! Cũng chả biết mặt mũi một đô-la nó ra làm sao nữa!”.

    “Tau cũng chả bao giờ có dều đô-la. Thực tế, tau cũng chả cần đến nó nữa. Cơ mà ông chủ bểu sẽ đưa mầy một số tiền cá, mà nếu mầy thắng trận nào, ông í có thể để cho mày hưởng một ít…”.

    “Bác đoán ông í làm thế à?”

    “Tau hy vọng thế là vì tau bết ông í ắt phải khoái cái sáng kến làm khỏe cánh của mày và thứ mày làm bỏ dều tền vào túi ông í mà. Có đều là nếu ông í làm thế, lệu mầy có bết đàng mà dành dụm dững gì mày kếm được không?”

    “Nhất định chứ! Chắc chắn cháu sẽ để dành!”.

    “Tau thậm chí nghe nói có dững nhọ được cuộc trong đá cáp và dành đủ tền mua lại tự do cho mình, thoát khỏi tay chủ”.

    “Mua cả cho cháu lẫn mẹ cháu!”.

    Lập tức, bác Mingo đứng dậy khỏi gốc cây cụt bác đang ngồi; nỗi ghen tị buốt nhói bác vừa cảm thấy, chẳng những đã đến hoàn toàn bất ngờ mà còn xáo đảo sâu sắc tận trong lòng đến nỗi bác khó tìm ra lời đối đáp. Thế rồi bác chợt nghe thấy mình sẵng giọng: “Ờ, chắc chả có gì là bất khả!” Đột nhiên muốn thoát ra khỏi cái cảm giác rằng ý thức của bác chia sẻ một mối tình thương mến thực sự gần gũi, không được đáp lại ngang xứng, bác rảo bước đi về lều mình để mặc George bối rối nhìn theo.

    Tại một cuộc đối đầu lớn đầu mùa năm 1824, cùng đi với ông chủ Lea, bác Mingo được một ông già luyện gà bác quen từ nhiều năm nay cho biết một cuộc đá cáp sẽ được tổ chức vào chiều thứ bảy tới, ở phía sau cái chuồng ngựa lớn của một đồn điền địa phương. “Tui cho rằng nó sẵn sàng hơn bao giờ hết, thưa ông chủ”, sau đó bác Mingo nói với ông chủ. Vào sáng thứ bảy, như đã hứa, ông chủ Lea tới và đếm hai mươi đô-la bằng giấy bạc lẻ và tiền đồng (coin) đưa cho bác Mingo. “Các ngươi biết chính sách của ta đấy”, ông ta nói với cả hai. “Nếu sợ không dám cá vào gà mình thì đừng có đưa nó ra chọi làm gì! Nếu không cá gì thì chẳng bao giờ được gì hết! Ta vui lòng mất bất kỳ cái gì các người mất, nhưng ta bỏ tiền ra và các ngươi chọi gà của ta, nên ta phải được một nửa bất kỳ khoản thắng cuộc nào, hiểu không? Và nếu ta ngờ có gì khuất tất trong chuyện tiền nong của ta, thì ta sẽ đánh tróc bộ da đen của các ngươi để lấy lại!” Nhưng hai ông con có thể thấy rõ ràng ông ta chỉ làm bộ dữ tợn khi thực sự vui vẻ, nên đồng thanh: “Vâng, thưa ông chủ!”

    Đi quanh góc chuồng ngựa quét vôi xám, cố không để lộ nỗi hồi hộp của mình, George trông thấy khoảng hai chục tay đá cáp người da đen đang đi lòng vòng, cười cười nói nói ở mé một sới chọi rộng và nông. Nhận ra khoảng một nửa trong số đó đã từng dự các cuộc đấu lớn cùng với chủ cũng như mình, nó mỉm cười vẫy chào và gật đầu với những người khác mà quần áo nhiều màu sắc và vẻ nghênh ngang độc lập của họ khiến nó đoán chắc đó là những người da đen tự do. Đưa mắt nhìn một số tương đương người da trắng nghèo ở đối diện bên kia sới, nó ngạc nhiên thấy mình cũng biết mấy tay trong bọn họ và lòng đầy tự hào, nó thoáng nghe thấy gã nọ bảo gã kia: “Hai tên nhọ của Tom Lea đấy”. Lát sau, các tay đá cáp, cả da đen và da trắng, bắt đầu cởi những bao tải lót cỏ khô, lôi ra những con gà đang túc, gáy và để chúng thư dãn (limber) trong khi bác Mingo bước quanh sới và nói một điều gì đó với người trọng tài to mập, mặt đỏ, người này gật đầu, đưa mắt nhìn George.

    Gã trai trẻ đang khẩn trương xoa bóp cho con gà tơ của mình thì bác Mingo trở lại và bắt đầu săn sóc con kia cũng được mang theo cùng chuyến. George mơ hồ cảm thấy không thoải mái vì sự gần gũi hơn bao giờ hết về thể xác với đám người da trắng nghèo vốn chỉ gây sự với người da đen, nhưng nó nhớ lại trên đường đến đây, bác Mingo đã nói với nó rằng đá cáp là điều duy nhất, theo bác biết, mà những người da trắng nghèo và người da đen cùng làm chung với nhau. Luật lệ qui định là chỉ hai người da trắng hoặc hai người da đen xuất gà ra chọi với nhau nhưng bất kỳ ai cũng có thể tự do đặt cược vào bất kỳ con nào trong bất kỳ trận nào.

    Với gà mình được xoa bóp và thư dãn đầy đủ, và đặt nó trở lại trong bao tải, George đắm mình hơn vào sự náo động xung quanh và thấy nhiều tay đá cáp nữa với những bao tải đầy hối hả đi về phía chuồng ngựa trong khi trọng tài bắt đầu vẫy tay.

    “Được rồi, ổn định nào! Ta bắt đầu cho gà ra đấu! Jim Carter! Ben Spence! Lại đây và lắp cựa cho gà!”.

    Hai người da trắng gày gò, ăn vận tồi tàn, tiến tới cân gà, rồi lắp cựa thép cho chúng giữa những tiếng hô cá cược lác đác với hai-mươi-lăm [đô-la] và năm mươi cent. Riêng về phần George, nó thấy không con nào trên mức trung bình so với hai con gà loại từ đàn của ông chủ đang nằm trong bao tải của nó và bác Mingo.

    Cùng lúc với tiếng hô : “Thả!” hai con lao ra, bật lên không rồi lại hạ xuống, quay cuồng và đánh dứ như thông lệ, theo George cảm nhận, đây chỉ là chọi thông thường và không có chút kịch tính ly kỳ nào như nó bao giờ cũng cảm thấy cùng với bác Mingo và ông chủ ở các cuộc đấu lớn. Cuối cùng khi một con đâm một cựa làm con kia bị thương nặng ở cổ, cũng vẫn phải mất hàng phút nữa mới kết liễu, mà với một con gà thượng hạng thì chỉ cần vài giây, George biết thế. Nó nhìn người thua cuộc rời bãi, cay đắng nguyền rủa vận đen đủi của mình, nắm chặt chân con gà chết. Trong trận thứ hai, rồi trận thứ ba, cả những con thắng lẫn con thua đều không chứng tỏ cho George sự máu lửa và đòn lối mà nó thường thấy, nên nỗi bồn chồn của nó giảm xuống vào lúc trận thứ tư đang đi đến hồi kết, cu cậu gần như vênh váo đợi lượt mình vào sới. Nhưng khi đến lượt, tim nó lại lập tức bắt đầu đập thùm thụp.

    “Tốt, tốt! Bây giờ đến lượt nhọ của ông Roames với một con chuối bông (speckled gray) và nhọ của ông Lea với một con điều (red)! Các anh lắp cựa đi!” George đã nhận ra đối thủ da đen chắc nịch của mình lúc hắn tới đây; trên thực tế, nhiều lần trong mấy năm qua, họ đã từng nói chuyện sơ với nhau tại các cuộc đá đối đầu lớn. Giờ đây, cảm thấy đôi mắt bác Mingo đang dán chặt vào mình, George hoàn tất thủ tục cân gà, rồi quỳ xuống, mở cúc túi yếm của chiếc quần lao động và rút ra bộ cựa bọc kín. Trong khi buộc cựa vào chân gà mình, nó nhớ lại lời dặn của bác Mingo “đừng lỏng quá kẻo chúng có thể bị bung ra và tuột xuống, đừng chặt quá kẻo chúng làm gà tê chân và bị chuột rút”. Hy vọng là mình thực hiện vừa đủ chặt, George nghe thấy quanh mình những tiếng hô: “Năm mươi cent cho con điều!”… “Theo!”… “Một đô-la cho con chuối!”… “Đồng ý!”… “Bốn đô-la cho con điều”. Đó là bác Mingo dõng dạc hô tiếng cá lớn nhất vượt xa mọi tay khác, dấy lên nhanh chóng một loạt tiếng xôn xao hưởng ứng. George có thể thấy sự náo nức của đám đông dâng lên cùng với nỗi hồi hộp của chính bản thân.

    “Chuẩn bị!”

    George quỳ xuống, giữ chắc con gà của mình trên mặt đất, cảm thấy mình nó rung lên trong niềm háo hức lao ra tấn công.

    “Thả!”

    Nó đã quên mất không theo dõi môi trọng tài! Lúc tay nó bật lên thì con gà kia đã vun vút xông tới. Luống cuống lùi lại, George kinh hãi nhìn con gà của mình bị đá vào mạn sườn và loạng choạng mất thăng bằng, rồi bị đâm vào bên phải, nhanh và mạnh đến nỗi nó quay lông lốc. Nhưng nhanh chóng hồi sức, nó quay lại tấn công trong khi một mảng lông thấm máu đen sẫm lại. Hai con gà nhảy lên xoắn vào nhau, gà của George bay cao hơn, nhưng khi nhào xuống, không hiểu sao lại đá trượt. Chúng làm động tác giả, rồi lại nhảy lên, lần này thì xấp xỉ cao bằng nhau, cả hai vung cựa nhanh đến nỗi không mắt nào theo dõi kịp. Trong vài phút tưởng như bất tận, tim George ngừng đập trong khi hai con gà xông vào cắn mổ, đánh dứ, lao lên và nhảy nhót khắp sới. Nó biết gà mình hẳn đang yếu sức vì mất máu liên tục, mặc dầu vẫn chống trả những đợt tấn công của con chuối bông. Rồi bất thình lình, một nhát cựa vung đánh nhoáng, thế là hết và con gà của George lăn ra run rẩy và quẫy đạp trong cơn giãy chết. George hầu như không nghe thấy những tiếng la hét và chửi rủa của đám hàng xáo (bettor), trong khi nó nhấc con gà hấp hối ra khỏi sới. Nước mắt trào ra, George đang chen lấn qua đám đông những người kinh ngạc trố mắt nhìn thì bác Mingo nắm lấy khuỷu tay nó, thô bạo đẩy dúi ra tới một chỗ không ai có thể nghe thấy.

    “Mày dư thằng ngu!” bác rít lên. “Đi bắt con gà kia để đánh trận sau thôi!”.

    “Cháu chẳng được tích sự gì cả, bác Mingo ạ. Làm cho con gà của ông chủ bị giết rồi!”

    Mingo có vẻ không tin. “Đã chọi gà thì bao giờ cũng có một bên thua. Mày không bao giờ thấy ông chủ thua sao? Thôi, bây giờ quay lại đó đi!” Nhưng cả dọa dẫm lẫn động viên dỗ dành đều không đủ để lay chuyển gã trai trẻ và cuối cùng bác thôi không gặng nữa. “Thôi được! Tau không về biểu ông chủ là chúng ta sợ mất vía không dám gỡ lại tền của ông í!”.

    Giận dữ, bác Mingo quay trở về phía đám đông quanh sới. Tuy xấu hổ, George vừa ngạc nhiên vừa lấy làm mừng là những tay đá cáp kia hầu như không để mắt tới nó, mà dồn cả chú ý vào trận đấu sau. Hai trận nữa trôi qua trước khi trọng tài lại gọi: “Nhọ của Tom Lea!”. Ngượng chín người, nó nghe thấy Mingo cá mười đô-la và có người nhận theo cuộc, trước khi ông lão thả con gà loại thứ hai của ông chủ. Nó giết địch thủ một cách lão luyện trong vòng không đầy hai phút.

    Những cố gắng của bác Mingo để an ủi George trong khi hai ông con cuốc bộ về phía đồn điền, không ăn thua mấy. “Chúng ta được hai đô-la, sao mà mày lại cứ đi đưa đám làm vậy?”

    “Thua xấu hổ quá thôi - mấy lị chắc ông chủ chả mấy muốn cháu đánh thua gà ông í nữa”…

    Thấy chú tập sự dường như đinh ninh là mình trở thành kẻ chiến bại ngay từ trước khi khởi đầu, bác Mingo hoang mang đến nỗi, sau ba ngày George quanh quẩn buồn rũ như muốn đất nứt ra, nuốt gọn với mình, bác quyết định phải nói với ông chủ Lea về chuyện đó. “Ông chủ, xin ông nói với thằng nhỏ í một tiếng. Xem vẻ nó nghĩ thua một trận là điều nhục nhã!”. Lần sau đến thăm khu gà chọi, ông chủ lại gần George “Tao nghe nói mày không đành tâm cam chịu một trận thua là nghĩa thế nào?”

    “Thưa ông chủ, để cho gà của ông bị giết, cháu cảm thấy thật ghê gớm!”

    “Ấy thế mà tao còn muốn mày đem chọi hai mươi con nữa cơ!”

    “Dạ, thưa ông”. Ngay cả với lời trấn an của ông chủ, George vẫn lừng chừng chưa thật vững tâm.

    Nhưng khi George thắng cả hai con trong đợt đá cáp tiếp theo thì cu cậu bắt đầu ra dáng và gáy vang như một trong những chú gà đắc thắng của mình. Sau khi hãnh diện thu những món tiền cá của nó, bác Mingo kéo George sang bên và thì thầm: “Mày cứ vênh váo cái đầu rồi lại thua cho mà xem!”.

    “Bác Mingo để cháu cầm tất cả số tiền kia tí thôi!” anh chàng thốt lên, hai tay khum vào nhau chìa ra.

    Trong khi George dán mắt vào xấp giấy bạc một đô-la nhàu nát và một lô tiền đồng nữa, bác Mingo cười nói: “Mày mang tiền về cho ông chủ, cả hai cùng thích!”.

    Trên đường về, George cố gắng - có dễ đến lần thứ một trăm - thuyết phục bác Mingo đến thăm xóm nô để gặp mẹ mình, cô Malizy, chị Sarah và bác Pompey. “Ông chủ chỉ có sáu chúng ta là nhọ, bác Mingo ạ, vậy ít nhất chúng ta cũng phải quen biết nhau chớ! Nhất định là họ thích gặp bác. Mỗi lần đến đấy, cháu đều nói chuyện về bác suốt, dưng mà các người í cảm thấy dư là bác không thích họ hay là thế nào í!”

    “Cả mầy lẫn họ đều phải bết rằng tau làm sao ghét ai được nếu tau thậm chí không quen người í!” Bác Mingo nói. “Thôi cứ giữ nguyên như cũ, như vậy họ đỡ phải phiền hà vì tau mà tau cũng không phải bận tâm đến họ!”

    Và một lần nữa, khi tới đồn điền, bác Mingo lại đi con đường vòng tách xa xóm nô.

    Mắt Kizzy tròn xoe khi trông thấy mớ giấy bạc và tiền đồng trong tay George. “Lạy Chúa, mày lấy đâu ra lắm thế, con trai?” bà hỏi và gọi Sarah tới coi thử.

    “Vậy chứ bao nhiêu đấy?” Sarah hỏi.

    “Em chả biết, chị ạ, dưng mà ở chỗ í còn nhiều hơn nữa”.

    Chị Sarah nắm lấy bàn tay rảnh của George đến khoe món bở với bác Pompey.

    “Giá tau cũng kiếm cho mình một con gà chọi có phải hơn không”, ông già nói “Dưng mà, nhỏ này, đây là tiền của ông chủ!”

    “Ông í cho cháu một nửa!” George hãnh diện giải thích. “Thật vậy, cháu phải đến giao phần cho ông í ngay bây giờ”.

    Đến nhà bếp, George phô tiền cho Malizy thấy, rồi xin gặp ông chủ.

    Khi ông chủ Lea bỏ chín đô-la được cá vào túi, ông ta cười ha hả: “Mẹ kiếp, tao ngờ là Mingo tuồn cho mày những con hay nhất, còn những con gà loại thì để cho tao!”.

    George ngây ngất cả người.

    Trong cuộc đá cáp lần sau, George lại thắng bằng hai con gà bữa trước, và chuỗi thắng lợi liên tiếp của George kích thích trí tò mò của ông chủ Lea đến nỗi cuối cùng, ông ta đành vi phạm những quy định tự đề ra cho mình không được dự một cuộc đá cáp.

    Việc ông chủ tới bất ngờ gây ra những tiếng xì xào và những cái huých nhau vội vã trong đám đá cáp trắng lẫn đen. Thấy ngay cả bác Mingo và George cũng lo lắng và không tự tin, ông chủ Lea bắt đầu cảm thấy áy náy vì việc mình đã đến. Rồi, nhận ra rằng mình cần phải chủ động, ông bèn cười nhăn nhở và vẫy chào một trong những người da trắng nghèo lớn tuổi. “Chào Jim!” Rồi một người khác “Ê, Pete!” Họ cười đáp lại, ngạc nhiên thấy ông ta còn nhớ tên mình. “Ê, Dave!” ông ta tiếp tục. “Tôi thấy hình như bao nhiêu răng còn sót lại của anh đã bị mẹ đĩ đá văng đi nốt rồi thì phải - hay là tại rượu whiskey hạng bét?”.

    Giữa tiếng cười rộ, người ta hầu như quên bẵng cuộc đá cáp và xúm lại quanh con người đã xuất thân nghèo hèn như bất kỳ ai trong bọn họ rồi sau trở thành một huyền thoại đối với họ.

    Tràn đầy kiêu hãnh, George ẵm gà dưới cánh tay và bỗng nhiên khụng khiệng diễu quanh ra sới, làm cả bác Mingo lẫn ông chủ Lea đều sững sờ. “Được! Được!” nó nói to tướng, “bất cứ người nào có tiền hãy sắp ra! Cứ cá đi, đừng lo, bao nhiêu cũng được, nếu tui không theo nổi, đã có ông chủ tui nhất định cân hết, ông ấy giàu thế cơ mà!” Trông thấy ông chủ tủm tỉm cười, George càng cao giọng hơn: “Đây tui chỉ đánh gà loại của ông ấy mà cũng được bất cứ con nào ở đây! Nhanh lên nào!”

    Một giờ sau, sau khi quảng bá rùm beng trận thắng thứ hai, George được hai mươi hai đô-la và ông chủ Lea gần bốn mươi do nhận những khoản cáp ngoài (side bet) mà một số người nài ép thêm. Ông ta thật lòng không thích lấy tiền của những người mà ông biết là nghèo rớt mồng tơi như ông thuở xưa, nhưng ông biết là từ đấy cho đến hết năm, họ sẽ đi khoe rằng họ đã mất gấp mười lần thế vì đánh cá với Tom Lea.

    Người ta thấy nhơ nhớ gã George tự kiêu, vênh váo, khi gã không xuất hiện ở bốn cuộc đá cáp sau đó trong quận Caswell vì bác Mingo lại bị một trận ho dữ dội nữa. George thấy cơn ho xuất hiện bất ngờ, không báo trước rồi kéo dai dẳng, và nó không nỡ để ông thầy già thui thủi ở nhà với đám gà chọi cũng như nó chẳng muốn đi một mình. Nhưng ngay cả khi bác Mingo đã đơ đỡ, bác nói bác vẫn chưa đủ sức đi bộ suốt chặng đường để đến dự cuộc đá cáp sắp tới - nhưng bác đề nghị George cứ đi.

    “Mầy đâu phải con nít! Giá có gái ở đấy lại chả nhanh dư chớp!”.

    Thành thử George đi một mình, mỗi tay xách một bao phồng to, đựng một con gà loại. Khi nó xuất hiện trong tầm mắt những sư kê (cocker) vốn đã cảm thấy thiêu thiếu sự có mặt rôm rả của nó trong thời gian gần đây, một người trong bọn kêu to: “Nhìn coi! Cái thằng “George-Gà” (Chicken George) đến kìa!” Tất cả phá lên cười và nó cũng cười theo.

    Trên đường về - trong túi, tiền được cược còn rủng rẻng hơn cả những lần trước - càng nghĩ, nó càng thích âm điệu của cái tên ấy. Nó có một vẻ thính nhạy nhất định.

    “Con cuộc là tất cả ở đây không ai đoán được họ đặt tên con là gì tại cuộc đá cáp!” vừa tới xóm nô, nó nói luôn.

    “Chịu, tên gì?”

    “George-Gà”.

    “Lạy Chúa tôi!” chị Sarah kêu lên.

    Mặt Kizzy long lanh đầy yêu thương và tự hào. “Được” chị nói, “rành là cũng gần gần đúng dư ai nấy đều tả cảnh mầy bi giờ!”

    Thậm chí cái biệt hiệu ấy cũng làm cho ông chủ Lea thú vị khi bác Mingo kể cho ông ta nghe; bác nhăn nhó nói thêm: “Tui lấy làm lạ sao họ không gọi nó là “George Nhè” vì cái thói nó vuỗn khóc òa lên mỗi lần gà nó bị giết. Bi giờ nó được dều thế mà vuỗn chả khác gì hết! Hễ gà nó bị một cựa chết (killin’ gaff) là nó tóe nước mắt, khóc tu tu và ôm ghì lấy gà như thể là con đẻ nó. Ông đã nghe thấy hay trông thấy thế bao giờ chưa, ông chủ?”

    Ông chủ Lea cười: “Ờ, chính ta nhiều lần cũng muốn khóc khi ta cá quá mức phải chăng và gà ta bị một cựa! Nhưng mà không, ta đồ chừng nó là đứa duy nhất xúc động mạnh như lão nói đấy, ta cho là nó quá gắn bó với gà”.

    Sau đó không lâu, tại cuộc “đá đối đầu” lớn nhất trong năm, ông chủ đang trở về xe, tay ẵm con gà vừa mang lại chiến thắng chung cuộc, thì nghe có tiếng người gọi: “Ơ, ông Lea!”. Quay lại, ông ngạc nhiên thấy sư kê quý tộc George Jewett miệng mỉm cười, chân sải bước về phía mình.

    Ông chủ Lea cố lấy giọng thản nhiên: “Ồ, ông Jewett đấy à!”.

    Rồi họ bắt tay nhau. “Ông Lea, tôi sẽ rất thẳng thắn như một quý ông và sư kê với nhau. Tôi vừa mới mất tên luyện gà (trainer). Bọn tuần tra đường bắt hắn đêm hôm nọ vì không có giấy thông hành. Chẳng may, hắn toan chạy trốn và bị bắn trọng thương. Hắn không chắc qua khỏi.”

    “Tôi lấy làm buồn khi nghe tin đó… tôi muốn nói, buồn cho ông chứ không phải cho tên nhọ”. ông chủ Lea nguyền rủa cho sự lúng túng của mình và đoán thử điều gì sắp tiếp theo. Hẳn nhà quí tộc cần tới Mingo.

    “Tất nhiên là thế.” Jewett nói. “Thành thử tôi đâm cần ít ra là một tay luyện gà tạm thời, một tên chí ít cũng biết đôi điều về gà chọi…” Ông ta ngừng một lát. “Trong những cuộc chọi gà của chúng ta, tôi để ý thấy ông có hai tên luyện gà. Tôi không dám nghĩ đến lão già dày dạn kinh nghiệm của ông, nhưng tôi tự hỏi liệu ông có vui lòng nhượng lại tên kia với một giá kha khá, cái thằng trai trẻ hiện đang chim chuột một con hầu gái ở chỗ tôi, theo như bọn nhọ của tôi mách…”

    Sự ngạc nhiên của ông chủ Lea pha lẫn với phẫn nộ trước cái bằng chứng đó về sự gian trá của George-Gà. Giọng ông ta như nghẹn lại: “À, tôi hiểu.”

    Ông chủ Jewett lại mỉm cười, biết rằng mình đã làm ông kia rớm máu. “Xin để tôi chứng minh rằng tôi không muốn cò kè bớt một thêm hai”. Ông ta ngừng một lát. “Ba nghìn đô-la có được không?”

    Ông chủ Lea lảo đảo, không dám chắc là mình đã nghe đúng. “Rất tiếc, thưa ông Jewett”, ông ta nghe thấy mình nói cộc lốc. Ông cảm thấy sướng rơn người vì có dịp cự tuyệt một nhà quý tộc giàu có.

    “Thôi được”. Giọng Jewett đanh lại. “Đề nghị cuối cùng của tôi: bốn nghìn!”

    “Có điều là tôi không bán người luyện gà của mình, ông Jewett ạ”.

    Mặt sư kê phú hộ xìu xuống, mắt ông ta trở nên lạnh lùng.

    “Tôi hiểu. Dĩ nhiên! Chúc ông một ngày tốt lành!”

    “Ông cũng vậy”, ông chủ Lea nói và họ đi về hai ngả đối lập.

    Ông chủ trở về xe nhanh nhất có thể, nhưng không chạy, nỗi giận dữ dâng lên. Bác Mingo và George-Gà thấy vẻ mặt ông ta bèn thận trọng ngồi yên, ngây đuỗn. Tới xe, ông ta vung nắm đấm dọa George, giọng run lên vì tức giận. “Tao thì đánh rập óc mày! Mẹ kiếp, mày làm cái gì ở chỗ Jewett - kể với lão ấy là ta luyện gà như thế nào hử?”

    George-Gà xám mặt lại: “Cháu chả kể với ông chủ Jewett gì hết, ông chủ ạ”… Gã chật vật lắm mới nói được. “Cháu chả bao giờ nói một câu nào mấy ông í, thưa ông chủ!” Vẻ kinh ngạc hoàn toàn và sợ hãi của gã khiến ông chủ Lea tin một nửa. “Mày định nói với tao là mày đi suốt đến đó chỉ để giăng gió với con ở nhà Jewett hay sao, mẹ kiếp?” Cho dù đó là điều vô tội, ông ta biết mỗi lần đi như thế đều đem lại nguy cơ cho gã luyện gà tập sự của ông trước mưu lược của Jewett và điều đó có thể dẫn đến mọi sự.

    “Thưa ông chủ, lạy Chúa lòng lành”…

    Một chiếc xe khác đang tiến sát lại, nhiều người trong đó gọi và vẫy chào ông chủ. Vừa vẫy tay đáp lại, ông chủ Lea vừa he hé miệng gượng mỉm cười và nhích ra tận đầu chiếc ghế băng, khẽ gắt bác Mingo khiếp đảm: “Quỷ tha ma bắt, đánh xe đi!” Suốt chặng đường về đồn điền tưởng chừng không bao giờ hết, không khí căng thẳng cơ hồ lấy dao cắt được. Sự căng thẳng giữa bác Mingo và George-Gà trong phần còn lại của ngày hôm đó cũng không kém mấy tí. Đêm ấy, George thao thức nằm, toát mồ hôi đoán trước hình phạt sắp tới.

    Nhưng không có gì đến cả. Và mấy ngày sau, ông chủ nói với bác Mingo như không có chuyện gì xảy ra. “Tuần sau, ta nhận lời mời đi đấu gà ở tận bang Virginia. Ta biết đi xe ngựa đường dài như thế không tốt gì cho bệnh ho của lão, cho nên ta chỉ mang theo thằng nhỏ thôi”.

    “Dạ, thưa ông chủ”

    Bác Mingo đã biết từ lâu là ngày đó phải đến; chính vì thế mà ông chủ đã luyện thằng nhỏ để thay bác. Nhưng bác không ngờ là nó đến sớm thế.

    14725610_1596767487299250_8018860967869139432_n.jpg
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/10/16
  6. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Chương 93

    ………

    “Ờ, Pompey đến sau, tên nhọ thứ hai của tao. Nhỏ, mày nghe tao kể đây, tao đã làm việc vai kề vai với gã George nhọ ấy, quần quật làm từ cái có thể đến cái không thể, đào gốc trốc rễ, phát bờ phát bụi, nậy đá để trồng mùa đầu tiên. Quả là chỉ có Chúa mới run rủi cho tao mua cái vé xổ số hai-mươi-lăm cent ấy và nhờ cái vé ấy, tao được con gà chọi (gamecock) đầu tiên trong đời tao. Nhỏ ạ, đó là con gà chọi hay nhất tao từng có! Ngay cả những lần nó bị thương nặng, tao chữa chạy cho nó và nó tiếp tục thắng nhiều trận đá cáp (hack fight) đến mức chưa ai từng nghe thấy có con gà nào làm được như thế.”

    ………

    “Không ạ... cháu muốn nói..., phải, thưa ông, chí ít ông cũng có chút tiền để mua nhọ, thưa ông chủ. Mùa này, ông thắng hay thế trong các cuộc chọi gà mà”. George-Gà hy vọng lái câu chuyện sang một chủ đề an toàn hơn. “Ông chủ ạ”, gã thật thà hỏi, “có sư kê (cocker) nào không có trại không nhỉ? Cháu muốn nói là không trồng cấy gì, mà chỉ nuôi gà thôi?”

    “Hừm-m-m. Theo tao biết thì không, trừ mấy tay bịp bợp thành thị, nhưng tao không bao giờ nghe nói bất kỳ đứa nào trong bọn ấy có đủ gà để đáng gọi là sư kê thực thụ”. Ông nghĩ một lúc. “Trên thực tế, thì thường thường là càng nhiều gà chọi thì trang trại càng lớn - như cái chỗ ông Jewett mà mày vẫn đến mò gái ấy”.

    ………

    “Cháu không quanh co gì đâu. Ông chủ ạ”. George-Gà cố hết sức mình tỏ ra nghiêm túc. “Cháu đang định nói mấy ông một điều cháu chưa hề nói mấy ai, ông chủ ạ! Ông biết cái ông chủ MacGregor với đám gà bông vàng (spangle yellow) trong các cuộc đấu chứ?”.

    ………

    Chương 95

    ………

    Hội cầu kinh của cô bắt đầu ngày chủ nhật kế đó, hai ngày sau khi George-Gà và ông chủ Lea lên đường với mười hai chú chọi trong xe.

    "Ông chủ biểu cuối cùng, ông đã có những con gà đích đáng để đem đi chọi ở nơi to tiền", anh giải thích rằng lần này gà nhà Lea sẽ đua tài trong một cuộc đối đầu quan trọng ở một nơi nào đó gần Goldsboro.

    Một buổi sáng khi họ ở ngoài đồng, chị Sarah thận trọng dùng một giọng dịu dàng biểu lộ sự thông cảm của một người phụ nữ bốn-mươi-bảy tuổi với một cô dâu mới mười tám tuổi: "Lạy Chúa, cưng ạ, chị ngờ ngợ rằng duyên số em rồi phải chia sẻ với mấy con gà mất".

    Matilda nhìn thẳng vào mặt bà: "Xưa nay em vẫn nghe nói và tin rằng cuộc nhân duyên của ai cũng vậy, họ làm nó thế nào thì nên thế ấy. Và em chắc anh í biết rõ anh í muốn cuộc vợ chồng của chúng em phải như thế nào".

    Nhưng sau khi xác định lập trường của mình về hôn nhân, Matilda sẵn sàng tham gia bất cứ cuộc mạn đàm nào về anh chồng đặc sắc của mình, dù tính chất câu chuyện là vui đùa hay nghiêm chỉnh.

    "Nó ngứa chân từ thuở mới bò toài", Kizzy nói với con dâu, một đêm đến thăm cô ở căn nhà mới.

    "Vâng, mẹ ạ", Matilda nói, "con cũng nghĩ thế khi anh í đến hẹn hò. Anh í hồ dư không nói gì khác ngoài chuyện chọi gà và đi đây đi đó với ông chủ". Cô ngập ngừng rồi nói thêm theo cái cách chân thực của mình: "Dưng khi anh í hiểu ra rằng không người đàn ông nào được tòm tem với con trước khi nhảy chổi thì, lạy Chúa, anh í nổi cơn tam bành lên chứ! Thực tế, có lần con thôi không gặp lại anh í nữa. Chả biết cái gì ốp anh í, dưng mà con muốn cười chết ngất cái đêm anh í hớt hải chạy đến biểu: "Nầy, chúng mình lấy nhau đi!"

    ………

    Vì ông chủ Lea ở trong số những người dự giải đá gà luân lưu (tournament) lớn năm 1830 tại Charleston, nên không ai có thể phê phán George-Gà về tội vắng mặt khi đứa bé ra đời. Anh chàng trở về, vừa sung sướng ngất ngây được biết về đứa con trai thứ hai - mà Matilda đã lấy tên em trai mình là Ashford đặt cho - vừa hớn hở với vận may của mình. “Ông chủ được hơn nghìn đô-la, còn tui được năm chục trong các cuộc đá cáp! Bà con ta phải nghe thấy cả cánh da trắng lẫn nhọ hò la: “Tui cá vào cửa George-Gà!” như thế nào”. Anh kể với Matilda là ở Charleston, ông chủ Lea đã được biết tổng thống Andrew Jackson là một người theo kiểu riêng của họ. “Không có ai thích chọi gà hơn tổng thống đâu! Ông gọi cả thượng mấy hạ nghị sĩ vào, rồi bày trò một thời gian cho họ xem lũ gà Tennessee của ông chọi nhau ngay trong Nhà Trắng! Ông chủ biểu cái ông Jackson í đánh bạc mấy uống rượu mới bất kì người lền ông nào. Họ biểu khi thắng dững con ngựa màu hạt dẻ chở ông đi trong cỗ xe Tổng thống đẹp đẽ, thì ông ngồi trên í mới cái va-li lót nhung đựng đầy rượu ngay bên cạnh! Ông chủ biểu chừng nào mà dững người da trắng miền nam muốn, anh ta có thể lưu Tổng thống lại đến khi nào Tổng thống mệt!”.

    ………

    Chương 97

    “Nghe nói bây giờ mày có bốn đứa con trai liền tù tì!”. Ông chủ xuống ngựa trong khu luyện gà. Phải mất cả một năm ròng, nỗi sợ hãi pha với giận dữ của dân da trắng miền Nam - trong đó có ông chủ Lea - mới xẹp hẳn. Tuy một hai tháng sau cuộc nổi loạn, ông chủ đã lại đem George-Gà đi theo đến các cuộc chọi gà, thái độ lạnh lùng rõ rệt của ông ta mãi đến hết năm mới tan hết. Nhưng vì những lý do mà cả hai đều không biết, từ đó quan hệ của họ dường như lại gần gũi hơn bao giờ hết. Không ai nhắc đến chuyện cũ lần nào, song cả hai đều tha thiết hy vọng sẽ không còn có những cuộc nổi dậy của người da đen nữa.

    “Vâng! Con trai to bự đẻ trước lúc rạng sáng, thưa ông chủ!” George-Gà nói, anh đang trộn khoảng một tá lòng trắng trứng và một vại bia với bột yến mạch, lúa mì xay (cracked wheat) cùng nhiều loại thảo dược (herb) giã nát để nướng thành thứ bánh mì đặc biệt làm thức ăn tươi cho gà chọi. Anh mới học được công thức “bí mật” ấy ngay sáng nay thôi, do bác Mingo già ốm yếu truyền lại một cách miễn cưỡng; ông chủ Lea đã ra lệnh cho bác phải nghỉ trong lều cho đến khi những cơn ho không dự đoán trước được và ngày càng nặng của bác dứt hẳn. Trong thời gian đó, một mình George-Gà phải ráo riết luyện hơn hai-mươi con gà chọi thượng-thặng sau những đợt thanh lọc nghiệt ngã trong số bảy-mươi-sáu con mới trưởng thành vừa được bắt về từ bãi thả.

    Chỉ còn chín tuần lễ nữa là đến ngày anh và ông chủ Lea phải đi New Orleans. Những năm chiến thắng ở địa phương, cộng với không ít thành công ở các cuộc đấu trong bang, cuối cùng đã khiến ông chủ mạnh dạn đem một tá gà hay nhất của mình tham dự cuộc đá đối đầu Tân Niên nổi tiếng, mở màn mùa chọi của thành phố đó. Nếu gà của Lea có thể thắng cỡ nửa số trận (pitting) trước các quán quân đẳng cấp được tụ tập tại đấy, thì ông chủ không những ăn được cả một tài sản, mà còn có thể qua một đêm tót lên địa vị được công nhận trong toàn thể những sư kê sừng sỏ ở miền Nam. Chỉ riêng cái khả năng ấy cũng đã gây háo hức đến nỗi George-Gà hầu như không thể nghĩ đến điều gì khác.

    Ông chủ Lea đã dắt con ngựa qua và buộc một sợi dây nhỏ từ đai mõm (halter) nó vào hàng rào (split-rail fence). Sải bước trở lại gần George, ông chủ dụi mũi giầy vào một túm cỏ và nói: “Kỳ cục dữ, bốn thằng nhỏ mà mày không lấy tên tao đặt cho thằng nào”.

    George-Gà vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ - và bối rối: “Ông rành là có lý, thưa ông chủ!” anh ấp úng thốt lên. “Đúng là có cái đích đáng để đặt tên cho thằng nhỏ này - Tom! Vâng, thưa ông, Tom!”.

    Ông chủ coi bộ mãn ý. Rồi ông đưa mắt nhìn về phía căn lều nhỏ dưới gốc cây, vẻ mặt trở nên nghiêm trang: “Lão già thế nào?”.

    “Thưa ông chủ, con nói thật với ông, khoảng giữa đêm qua, bác í bị một cơn ho xấu tệ. Đấy là vào trước lúc bác Pompey được họ phái xuống đây gọi cháu lên kia khi Tilda đẻ. Đúng sáng nay, cháu nấu nướng một chút cho bác í ăn thì bác í ngồi dậy và ăn hết sạch, lại thề rằng mình thấy trong người dễ chịu. Bác í khùng lên khi cháu bảo bác í phải nằm trong giường cho đến khi nào ông biểu bác í có thể ra ngoài”.

    “Thôi được, dù sao cũng cứ để cái con ó già ấy nằm yên trong đó một hôm nữa đã”, ông chủ nói: “Có lẽ tao phải kiếm một ông đốc-tờ xuống đây xem cho lão. Cái bệnh ho tệ hại này cứ trở đi trở lại, chừng nào còn thì chẳng hay gì!”.

    “Đúng thế, thưa ông. Nhưng rành là bác í chả tin gì đốc-tờ, thưa ông chủ”…

    “Tao bất cần lão ấy tin cái gì! Nhưng ta hãy xem đến hết tuần, lão ấy ra sao…”

    Trong khoảng một giờ sau, ông chủ Lea kiểm tra đám gà con và gà tơ trong chuồng rào, và cuối cùng, đến những con gà tuyệt vời mà George-Gà đang biệt dưỡng (conditioning) và huấn luyện (training). Ông chủ Lea hài lòng với những gì mình chứng kiến. Rồi ông ta nói chuyện về chuyến đi sắp tới một lúc. Sẽ phải mất gần sáu tuần mới tới New Orleans được, ông nói, bằng cỗ xe thổ mộ mới nặng nề ông đang thuê đóng ở Greensboro. Nó sẽ có thêm phần mở rộng (extended bed) với mười hai chuồng gà tháo lắp vừa khít, một bàn tập (workbench) đệm đặc biệt cho bài tập hằng ngày của gà trong khi đi đường, cùng các giá, kệ, thùng đặc biệt mà ông chủ Lea đã chỉ định để đựng mọi vật dụng và đồ dự trữ cần thiết cho bất kỳ chuyến đi dài mang theo gà chọi nào. Nó sẽ hoàn tất trong vòng mười ngày nữa.

    Khi ông chủ Lea về rồi, George-Gà đắm mình vào những nhiệm vụ còn lại trong ngày. Anh đang đẩy đàn gà đến mức cực hạn. Ông chủ đã giao quyền cho anh vận dụng nhận định cá nhân của mình để loại thêm bất cứ con nào anh phát hiện thấy có một tật nhỏ bất luận thuộc loại gì, bởi lẽ chỉ những con gà siêu toàn diện nhất mới có cơ hội ở đẳng cấp thi đấu đang chờ chúng tại New Orleans. Làm việc với đàn gà, anh vẫn nghĩ về loại âm nhạc mà họ bảo anh sắp được nghe ở New Orleans, bao gồm những dàn kèn đồng lớn diễn qua các phố. Người thủy thủ da đen anh gặp ở Charleston còn nói rằng cứ đầu giờ chiều mỗi ngày chủ nhật, hàng nghìn người lại tụ tập ở một quảng trường lớn gọi là “Khu Congo” dể xem hàng trăm nô lệ biểu diễn các điệu nhảy của các vùng và dân tộc Phi châu, nơi quê cha đất tổ của họ. Và gã thủy thủ thề rằng bến cảng New Orleans vượt bất cứ bến cảng nào gã từng thấy. Còn cái khoản phụ nữ í chứ! Cả một nguồn vô tận, gã thuỷ thủ nói, muốn chuộng lạ bao nhiêu cũng có, đủ loại và đủ màu, nào loại “bản địa” (creoles), nào loại “đen một phần tư” (quadroons), “đen một phần tám” (octoroons). Anh nôn nóng chỉ muốn đến ngày đó.

    Chiều muộn hôm đó, sau nhiều lần định làm nhưng lại mắc một việc vặt vãnh gì đó, cuối cùng George gõ cửa bước vào căn lều bừa bộn, ẩm mốc của bác Mingo.

    “Bác thấy trong người thế nào?” George hỏi. “Có cái gì cháu làm được cho bác không?” Nhưng anh không cần đợi trả lời mới biết.

    Ông lão nhợt nhạt và yếu đến mức anh sửng sốt - nhưng cáu bẳn hơn bao giờ hết vì nỗi bắt buộc phải nằm ì.

    “Mầy ra khỏi đây! Đi mà hỏi ông chủ xem tau thấy trong người thế nào! Ông í biết hơn tau đấy!” Rõ ràng bác Mingo muốn được yên thân, nên George-Gà đành bỏ đi, bụng nghĩ bác ta sắp sửa giống lũ mồi già thịt dai, lông cộc của mình - những lão tướng dẻo dai qua bao phen chiến trận, nhưng bị tuổi giàđuổi kịp và tàn phá, chủ yếu chỉ còn lại bản năng.

    ………

    Chương 98

    Bốn tuần sau, chiếc xe thổ mộ mới đã sẵn sàng giao cho người nhận ở Greensboro. Ông chủ đặt đóng nó thật hợp lý biết bao, George-Gà ngẫm nghĩ trong khi hai thầy trò đánh xe đến đó, vì họ cần đến New Orleans, không phải cọt kẹt và chí chóe trong cái mớ tùm hum xộc xệch cũ kỹ này, mà là trong cỗ xe thổ mộ đẹp nhất có thể bỏ tiền ra mua được - xứng hợp với một sư kê cự phách và tay luyện gà của ông ta. Cũng vì lý do ấy, trước khi họ rời Greensboro, anh phải vay ông chủ một đô-la rưỡi để mua một chiếc mũ quả dưa (derby) đen mới cho hợp với chiếc khăn quàng xanh lục mới mà Matilda đan đã gần xong. Anh cũng sẽ làm sao đảm bảo chắc chắn để Matilda gói ghém cả hai bộ complê xanh và vàng, bộ dây đeo quần đỏ đẹp nhất, nhiều sơ mi, quần lót, bít tất và mùi xoa, vì sau cuộc đấu, anh biết mình cần phảitốt mãkhi họ mò ra phố.

    Trong mấy phút sau khi đến cửa hàng đóng xe, đứng ngoài chờ, George bập bõm nghe thấy tiếng đôi co từ sau cánh cửa đóng kín. Anh biết ông chủ đã khá lâu để có thể đoán trước như thế, nên anh chả buồn nghe làm gì; anh đang quá bận bịu trong đầu, lựa lọc các nhiệm vụ anh phải lo liệu ở nhà, trước khi lên đường. Công việc gay nhất anh biết - là loại thêm bảy con gà trong số mười chín con mẫu mực tuyệt vời mà anh đã luyện cho những ngón sắc sảo để giết tươi đối thủ. Trong xe chỉ có chỗ cho mười hai con và việc tuyển chọn chúng là một thử thách không những với óc xét đoán của anh và của ông chủ, mà còn cả bác Mingo, người đã lại đỡ bệnh, đi ra đi vô, dạo quanh được, vẫn chua chát và ác khẩu như bao giờ.

    Bên trong cửa hàng, giọng ông chủ Lea đã cất cao thành tiếng la lối: sự chậm trễ không thể tha thứ được trong việc hoàn thành chiếc xe đã làm ông tốn tiền, cái đó phải khấu trừ vào giá. Người chủ hiệu quát lại rằng y đã thúc công việc nhanh hết mức và đáng lý giá phải cao hơn vì phí tổn về vật liệu đã tăng lên cùng những đòi hỏi quá quắt về lương lậu của bọn thợ da đen tự do. Nghe đoạn này George-gà đoán rằng thực ra ông chủ không đến nỗi cáu như vẻ bề ngoài, mà chỉ thăm dò người chủ hiệu xe xem có thể cò kè bớt đi được ít ra là mấy đô-la hay không.

    Sau một lát, xem chừng trong nhà đã đi đến một kết quả gì đó vì tiếng cãi cọ dường như đã kết thúc, và chẳng mấy chốc ông chủ Lea cùng người chủ hiệu xe đi ra, mặt còn đỏ gay, nhưng giờ đây đã cư xử và trò chuyện một cách hữu hảo. Người thương gia gọi to về phía sau cửa hiệu và mấy phút sau, bốn người da đen ì ạch xuất hiện, gần như gập đôi người, kéo theo sau lưng chiếc xe thổ mộ mới nặng nề đóng-theo-đặt-hàng. George tròn xoe mắt trước tay nghề tinh xảo và vẻ đẹp của chiếc xe. Anh có thể cảm thấy sức mạnh trong thân và khung gỗ sồi của nó. Ở khúc giữa thùng xe dài một cách bề thế, nhô lên những chóp của mười hai cái chuồng tháo lắp được. Các trục (axle) và đùm (hub) sắt rõ ràng là rất cân và được tra dầu mỡ trơn tru vì mặc dầu xe vừa to vừa nặng, anh không hề nghe tiếng cót két hoặc thậm chí tiếng cọ sát nào cả. Anh cũng chưa từng thấy mặt ông chủ Lea nở một nụ cười như thế này bao giờ.

    “Đây là một trong những xe oách nhất mà chúng tôi từng sản xuất!” người chủ hiệu xe thốt lên. “Đẹp đến nỗi gần như tiếc không muốn đi!” Một cách cởi mở, ông chủ Lea nói: “Ờ, nó sắp sửa phải lăn bánh trên một chặng đường dài đấy!”. Người chủ hiệu xe lúc lắc đầu: “New Orleans! Một chuyến đi dài sáu tuần lễ đấy. Ai sẽ cùng đi với ông?”

    Ông chủ Lea quay lại, khoát tay về phía George-Gà đang ngồi trên ghế tài của chiếc xe thổ mộ cũ. “Tên nhọ kia của tôi và mười hai con gà.”

    Đón trước mệnh lệnh của ông chủ, George-Gà nhảy xuống và quay lại tháo dây buộc đôi la thuê mà họ rong theo, rồi dẫn chúng đến chỗ chiếc xe thổ mộ mới. Một trong bốn người thợ da đen giúp anh thắng la vào xe, rồi quay lại nhập bọn với những người kia, họ không chú ý gì đến George-Gà nữa, cũng như anh chẳng buồn quan tâm đến họ; nói cho cùng, họ là những người da đen tự do mà ông chủ Lea thường nói là ông thấy gai mắt không chịu nổi. Sau khi đi vòng quanh chiếc xe mấy lần với cặp mắt long lanh và bộ mặt nở rộng một nụ cười, ông chủ bắt tay người chủ hiệu xe, cảm ơn lão và hãnh diện leo lên ghế của cỗ xe mới. Miệng chúc ông may mắn, người chủ hiệu xe đứng đó lắc lư đầu thán phục công trình của chính mình, trong khi ông chủ Lea dẫn đầu ra khỏi khu đất, với George-Gà theo sau trong chiếc xe cũ.

    Trên quãng đường dài đánh xe về nhà - chiếc mũ quả dưa mới đặt trên ghế bên cạnh mình, cùng với đôi ghệt dạ sang trọng màu xám đã làm anh hụt đi một đô-la - George nhẩm nốt trong đầu danh sách những việc anh phải lo liệu trước khi đi New Orleans và bắt đầu nghĩ đến những thứ cần làm để đảm bảo cho mọi sự vẫn trôi chảy trong khi họ đi xa. Tuy biết rằng vắng anh, việc nhà sẽ khó khăn, anh vẫn tin rằng Matilda và Kizzy sẽ đủ sức đảm đương nhiệm vụ; và mặc dù bác Mingo không còn tháo vát lanh lợi như trước nữa, mỗi năm một thêm lẩm cẩm, George vẫn chắc chắn rằng ông lão có thể chăm nom đàn gà chu toàn cho đến khi anh trở về. Nhưng anh sớm muộn biết, anh sẽ cần một sự trợ lực lớn hơn khả năng đang suy của bác Mingo.

    Dù thế nào di nữa, anh cũng phải tìm cách vượt được sự mù lòa của vợ và mẹ mình trước cái cơ hội hiếm có mà anh cảm thấy có thể mở ra cho cu Virgil, nhất là vì thằng bé đã gần sáu tuổi, chẳng bao lâu sẽ phải bắt đầu ra làm đồng. Trong lúc vắng nhà, anh đã nảy ra ý nghĩ là có thể giao cho Virgil giúp bác Mingo trông nom đàn gà - rồi cứ tiếp tục công việc sau khi họ trở về, đơn giản thế thôi - song anh vừa nêu ý kiến đó ra, Matilda đã đùng đùng phản đối: “Vậy thì để ông chủ mua đứa nào mà giúp bác í!” và Kizzy gay gắt xen vào: “Dững con gà í đã đánh cắp đi của gia đình này kháđủrồi!” Không muốn để xảy ra một cuộc xung đột mới với họ, anh không cố ép, nhưng nhất định không muốn thấy ông chủ có thể mua một người nào đó hoàn toàn xa lạ để đột nhập vào địa phận riêng của anh và bác Mingo.

    Tuy nhiên, ngay cả nếu ông chủ không dại gì mà đưa một người ngoài vào, George cũng chưa dám chắc là bác Mingo có chấp nhận để Virgil giúp việc hay không, ông lão dường như ngày càng buồn bực từ khi gã phụ tá phát triển một quan hệ gần gũi với ông chủ hơn chính bản thân bác. Mới gần đây thôi, cay đắng vì nỗi không được phép cùng đi New Orleans với họ, bác Mingo đã nói rằng: “Mầy mấy ông chủ ngỡ có thể giao cho tau nuôi gà trong khi thầy trò mầy đi hả?” George ước sao bác Mingo hiểu cho rằng anh không dính gì vào những quyết định của ông chủ cả. Đồng thời, anh tự hỏi tại sao ông già lại không đơn giản nhìn thẳng vào cái thực tế là vào cái tuổi ngoài bảy mươi, ông chả còn hơi sức đâu mà đi ròng rã sáu tuần lễ, bất kể về hướng nào, gần như chắc chắn là bác sẽ ốm gục ở một quãng nào đó, đẻ thêm bao nhiêu vấn đề rắc rối cho anh và ông chủ. George hết lòng ước ao sao biết được cách làm cho bác Mingo đỡ khổ sở hơn về chuyện này hoặc ít ra cũng thôi đừng đổ tội cho anh về mọi sự nữa.

    Cuối cùng, hai cái xe rẽ khỏi đường cái lớn và lăn bánh xuôi theo lối vào đồn điền. Gần tới đại sảnh, anh ngạc nhiên thấy bà Lea ra cửa trước và bước xuống bậc thềm. Lát sau, từ cửa sau, Malizy ló ra. Rồi anh trông thấy Matilda cùng các con, mẹ Kizzy, chị Sarah và bác Pompey hối hả từ các lều chạy tới. Cả bọn họ làm gì ở đây, vào chiều thứ năm - George tự hỏi - trong khi đáng lẽ phải ở ngoài đồng? Phải chăng họ háo hức muốn xem cỗ xe mới, đẹp đẽ, đến nỗi sẵn sàng liều mạng chịu cơn nổi giận của ông chủ. Rồi anh trông thấy vẻ mặt họ và biết không một ai quan tâm gì đến bất cứ một cái xe mới nào.

    Khi thấy bà Lea tiếp tục bước tới chiếc xe của ông chủ, George ghìm cương dừng xe mình lại và, từ chiếc ghế tài cao, vươn người ra đằng trước để nghe cho rõ hơn những điều bà nói với ông chủ. George thấy người ông chủ giật nhổm lên thẳng đứng, trong khi bà chủ chạy trở lại phía nhà. Sững sờ, George nhìn ông chủ Lea từ chiếc xe mới trèo xuống và chậm rãi, nặng nề bước lộn lại phía anh. Anh thấy bộ mặt tái nhợt đi vì xúc động đột ngột - và anh chợt hiểu ra! Câu nói của ông chủ vẳng tới anh như từ một chốn xa: “Mingo chết”.

    Sụp xuống tựa mạng sườn vào chiếc ghế xe, George khóc tu tu lên như chưa từng khóc thế bao giờ. Anh chỉ mơ hồ cảm thấy ông chủ và bác Pompey gần như đánh vật để đỡ anh xuống đất. Rồi bác Pompey một bên, và Matilda bên kia dìu anh về xóm nô, những người khác xung quanh thấy anh đau buồn thế lại khóc. Matilda xốc anh loạng choạng vào trong lều, theo sau là Kizzy bế đứa bé.

    Khi anh đã trấn tĩnh lại, mọi người bèn kể cho anh nghe điều đã xảy ra. “Anh với ông chủ đi sáng thứ hai.” Matilda nói, “và đêm í ở đây không ai ngủ yên. Tuồng dư sáng thứ ba, tất cả thức giấc cảm thấy dư nghe rõ hàng tràng cú rúc chó sủa. Thế rồi nghe thấy tiếng kêu thét…”

    “Đấy là Malizy!” Kizzy thốt lên. “Lạy Chúa, bà í gào thiệt dữ! Bọn tui ào ra chỗ bà í đi cho lợn ăn. Và bác ta nằm đây, tội nghiệp cái linh hồn già sõng sượt trên đường cái, nom dư một đống giẻ!”

    “Lúc ấy, bác vẫn còn sống” - Matilda nói - nhưng “chỉ một bên miệng bác í động đậy. Em quỳ sụp ngay xuống ghé sát vào, chỉ hơi đoán ra lời bác í thì thào. “Chắc tui bị đột quỵ” bác biểu thế, “Giúp tui trông đàn gà… Tui không thể…”.

    “Lạy Chúa thương xót, không ai biết làm như thế nào cả!” Kizzy nói, nhưng rồi bác Pompey cố bế cái hình hài mềm oặt mà nặng nề lên. Bác không đủ sức và mọi người xúm lại, cuối cùng kéo được bác Mingo về xóm nô, đặt lên giường bác Pompey.

    “George ạ, bác í đã thúi dữ, sực mùi ốm trên người!” Matilda nói. “Bọn tui bắt đầu quạt mặt bác í và bác í tiếp tục thì thào… dững con gà… tui phải quay về…”

    “Bấy giờ Malizy mới chạy đi thưa mấy bà chủ.” Kizzy nói, “bà í đến, vặn vẹo tay, kêu khóc, làm bù lu bù loa lên! Dưng đâu phải là vì ông anh Mingo của tôi! Không! Tiên chưng bà í với hò rằng phải cắt ai xuống chỗ lũ gà kẻo ông chủ lên cơn mất! Thế là Matilda gọi Virgil…”

    “Rành là em chả muốn thế đâu!” Matilda nói, “Anh biết ý em thế nào về chuyện í rồi đấy. Một người trong nhà ở dưới í với lũ gà là đủ rồi. Mấy lị, em đã nghe nói nào chó lạc, nào cáo, thậm chí là cả mèo rừng, lảng vảng tìm cách ăn thịt gà! Dưng mà Chúa phù hộ lái tim thằng bé! Nó sợ xanh mắt, dưng mà nó nói: “Mẹ ạ, con đi, con chỉ không biết làm thế nào thôi!” Bác Pompey bèn lấy một túi ngô mà rằng: Trông thấy con nào, cháu cứ ném một nắm này cho nó, rồi hễ lúc nào có thể, ông xuống đấy ngay…”

    “Vì không có cách nào nhắn được tới anh và ông chủ, trong khi Sarah thì e rằng bệnh tình bác Mingo đã vượt quá giới hạn các thứ rễ cây của cô có thể chữa khỏi và thậm chí bà chủ cũng không biết xoay sở ra sao để tìm được bất kì một ông bác sĩ nào, nên bọn tui không thể làm gì khác, ngoại trừ chờ thầy trò anh về”, họ nói với anh. Matilda bỗng khóc và George với tay ra nắm lấy tay cô.

    “Nó khóc là vì lúc bọn tui quay về lều bác Pompey sau khi thưa chuyện bà chủ, thì bác Mingo đi rồi.” Kizzy nói. “Lạy Chúa! Chỉ nhìn bác một cái là biết!” Lúc này chính bà cũng nức nở. “Tội nghiệp cái linh hồn già, chết thui thủi một mình!”

    Khi bà Lea được báo, Matilda nói. “bà í bắt đầu la rầm lên rằng bà í thật chả biết làm thế nào mấy những người chết cả, chỉ nghe ông chủ nói là nếu giữ hơn một ngày là bắt đầu thối rữa. Bà í biểu khi thầy trò anh về thì đã quá hạn í lâu rồi, cho nên bà biểu bọn tui phải đào một cái hố…”

    “Lạy Chúa!” Kizzy thốt lên. “Bên dưới rừng liễu đất khá mềm. Bọn tui lấy xẻng, bác Pompey mấy cả bọn lền bà chúng tui đào đào bới bới, luân phiên nhau mỗi người một lần, cho đến khi được một cái hố vừa để đặt bác í vào. Bọn tui quay về, rồi bác Pompey mới tắm rửa cho bác í.”

    “Bác Pompey bôi lên người bác í một ít glycerin cô Malizy xin của bà chủ”, Matilda nói “ rồi rẩy lên ít nước hoa, thứ anh mang về cho em năm ngoái í mà”.

    “Chả có quần áo lành lặn tử tế mà mặc cho bác í”, Kizzy kể tiếp, “cái bộ bác í đang mặc thì hôi quá, còn bác Pompey có lèo tèo mấy cái thì cái nào cũng quá chật, thành thử đành chỉ quấn bác í trong hai tấm khăn trải giường”. Sau đó, bà nói, bác Pompey đã chặt hai cành cây xanh thẳng, trong khi đám phụ nữ tìm được số ván cũ và họ làm một cái cáng. “Về bà chủ, phải nói rằng khi bà í trông thấy bọn tui tất cả xúm lại khiêng bác í đến huyệt”, Matilda nói “thì bà í đã chạy đến với quyển Kinh Thánh nhà họ. Khi bọn tui đưa bác í đến đấy, bà í đọc mấy đoạn trong Thánh Thi (Psalm), rồi em cầu nguyện, xin Thượng đế cứu rỗi cho linh hồn cụ Mingo an nghỉ… Thế rồi mọi người đặt thi thể xuống huyệt và lấp đất lên”.

    “Bọn tui đã lo cho bác í tốt đẹp nhất với sức mình có thể làm! Anh muốn bực thì mặc anh”. Matilda lớn tiếng, hiểu lầm vẻ đau đớn trên mặt chồng.

    Níu lấy và ghì chặt vợ, anh cất giọng khàn khàn; “Chẳng ai bực giận cả…” Xúc động làm anh nghẹn lại không diễn đạt nên lời nỗi giận dữ với bản thân mình và ông chủ đã không có mặt ở đây sáng nay. Biết đâu họ chẳng có thể làm được chút gì khả dĩ cứu được bác.

    Lát sau, anh rời khỏi căn lều, ngẫm nghĩ về chuyện chính những người vẫn nói ra miệng là không ưa Mingo, đã tỏ ra xiết bao quan tâm, lo lắng và thậm chí yêu thương đối với bác. Nom thấy bác Pompey, anh bước tới, riết chặt tay bác và hai người nói chuyện một lát. Bác Pompey cũng gần bằng tuổi bác Mingo; bác nói là bác vừa ở khu gà chọi về, để cu Virgil ở lại đó trông gà. “Cháu có thằng con trai ngoan lắm, rành là thế!” Rồi bác bảo “Khi nào cháu xuống đấy, vì rằng giời không mưa, cháu vẫn có thể thấy cái vệt ngoằn ngoèo trên bụi đường là dấu của ông anh Mingo lết mình trong đêm tối suốt từ đấy đến đây”.

    George không muốn nhìn thấy cái đó. Chia tay với bác Pompey, anh chậm rãi bước tới rặng liễu. Phải mất một lúc, anh mới nhìn thẳng vào nắm đất mới đắp lên. Đi quanh quẩn như trong một cơn choáng, nhặt mấy hòn đá, anh xếp thành một hình trang trí quanh mộ. Anh cảm thấy mình không xứng đáng.

    Để tránh cái vệt do bác Mingo để lại trên lớp bụi đường, anh đi tắt qua một cánh đồng đầy thân ngô gẫy đến khu gà chọi.

    “Con đã làm một việc tốt, con trai ạ. Bi giờ, con đi về mấy mẹ thì hơn”. Anh nói, bàn tay thô kệch vỗ vỗ đầu Virgil, làm thằng bé sướng rơn với lời khen đầu tiên của bố. Sau khi nó đi rồi George ngồi xuống và mắt trừng trừng nhìn vào khoảng không, đầu óc lộn xộn những cảnh từ mười lăm năm nay, lắng nghe những vang vọng của con người vừa là thầy vừa là bạn, gần gũi anh nhất từ xưa đến nay, tựa hồ một người cha. Anh gần như nghe thấy cái giọng rạn vỡ ấy quát tháo ra lệnh, dịu xuống khi nói chuyện chọi gà, chua chát phàn nàn về nỗi bị gạt ra rìa. “Mầy mấy ông chủ ngỡ có thể giao cho tau nuôi gà trong khi thầy trò mầy đi hả?” George cảm thấy mình ngợp chìm trong hối hận.

    Những câu hỏi đến với anh: Bác Mingo ở đâu trước khi ông chủ Lea mua bác? Gia đình bác có những ai? Bác chẳng bao giờ nhắc đến người thân nào. Liệu bác có vợ con ở một nơi nào không? George là người gần gũi bác nhất trên đời này, vậy mà anh biết quá ít về con người đã dạy anh mọi điều anh biết.

    George-Gà dạo bước: Lạy Chúa, đâu rồi, ông bạn già dáng đi lóng ngóng đã bao lần cùng anh giẫm gót lên từng tấc đất của nơi quen thuộc này?

    Anh ở lại đó một mình suốt ngày và đêm hôm sau. Sáng thứ bảy, ông chủ Lea mới xuất hiện. Mặt ngơ ngác và u ám, ông đi thẳng vào vấn đề: “Tao nghĩ hết nước hết cái rồi. Trước hết, cứ đốt phăng cái lều của Mingo đi. Đó là cách tốt nhất để thanh toán chuyện này”.

    Mấy phút sau, họ đứng nhìn những ngọn lửa thiêu trụi căn lều nhỏ đã từng là mái ấm che cho bác Mingo trong hơn bốn mươi năm trời. George-Gà cảm thấy là ông chủ còn nghĩ một điều gì khác trong đầu, song khi ông nói ra, anh có phần bị bất ngờ.

    “Tao đã nghĩ về chuyện đi New Orleans”, ông chủ nói, “Có quá nhiều bất trắc, trừ phi mọi cái được thu xếp ổn thỏa…” Ông nói chậm rãi, gần như là chuyện trò với bản thân. “Ta không thể đi mà không có ai trông nom gà ở nhà. Tìm người thì mất thì giờ quá, có khi lại phải dạy nghề nó nữa. Tao đi một mình thì không được rồi, phải lái xe ngần nấy đường đất, rồi lại còn chăm sóc mười hai con gà nữa. Đi dự chọi gà mà không nhằm mục đích thắng cuộc thì còn nghĩa lý quái gì. Bây giờ mà cứ đi thì chỉ là điên rồ…”

    George-Gà nuốt khan đánh ực. Ngần ấy tháng trời chuẩn bị… ngần ấy tiền ông chủ phải chi tiêu… bao nhiêu hy vọng của ông chủ nhằm lọt được vào giới chọi gà ưu tú nhất của miền Nam… những con gà luyện tuyệt vời đến thế để đánh bại bất kỳ đối thủ có cánh nào. Nuốt đánh ực lần thứ hai, anh nói: “Vâng, thưa ông chủ”.
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/5/19
  7. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Chương 99

    Làm việc một mình ở dưới này với đàn gà chọi quả là xa lạ và cô quạnh đến nỗi George-Gà đâm tự hỏi làm sao mà bác Mingo có thể chịu được hơn hai-mươi-lăm năm trời, trước khi anh đến với bác. “Khi ông chủ mua tau”, ông lão đã kể với anh, “và đàn gà bắt đầu đông thêm, ông í cứ bỉu là sẽ mua thêm cho tau một đứa giúp việc, cơ mà ông í chả bao giờ giữ lời, và tau mới vỡ nhẽ ra là bạn bầu mấy gà có khi còn tốt hơn chung đụng mấy người”. Mặc dầu George cảm thấy mình cũng yêu gà gần như chẳng kém ai, đối với anh, chúng không bao giờ có thể thay thế người được. Song anh cần một người nào đó để giúp mình chứ không phải để bầu bạn, anh tự nhủ vậy.

    Riêng phần mình, anh vẫn thấy nên chọn Virgil là hợp lý nhất. Như thế mọi sự sẽ vẫn là bó tròn trong phạm vi gia đình và anh có thể đào tạo thằng bé y như bác Mingo đã đào tạo anh. Nhưng vì anh ngại phải thương lượng với Matilda và Kizzy nên George cố nghĩ xem có tay luyện gà nào quen mà anh có thể thuyết phục ông chủ mua lại của người hiện đang sở hữu y. Song anh biết bất cứ ông chủ sư kê chính hiệu nào phải ở bước dường cùng, thực sự cần tiền đến mức tuyệt vọng, mới nghĩ đến chuyện bán tay luyện gà của mình, nhất là lại bán cho một đối thủ như ông chủ Lea nữa. Cho nên anh bèn nghĩ đến những tay đá cáp da đen, song có tới nửa số này cũng là dân luyện gà như anh, đem những gà loại của ông chủ họ đi chọi, và phần lớn trong đám còn lại thì cũng thuộc loại ba như gà của họ hoặc giả là những nhân vật khả nghi đem chọi những con rất hay, kiếm được bằng những cách đáng ngờ. Có một số tay đá cáp người da đen tự-do anh đã gặp là những tay cừ thực sự và có thể thuê công nhật, thuê hàng tuần, hàng tháng hoặc thậm chí cả năm, nhưng anh biết không đời nào ông chủ Lea cho phép một người da đen tự-do lọt vào đất đai của ông, dù anh ta có là tay luyện gà cự phách nhất ở North Carolina chăng nữa. Thành thử George không có cách nào khác. Và cuối cùng một buổi tối, anh thu hết nghị lực, nêu vấn đề ra trong gia đình.

    “Trước khi em lại biểu là em không chịu, thì hẵng nghe anh đã. Lần sau mà ông chủ muốn đem theo anh đi đâu chắc chắn lúc í ông í sẽ biểu anh: “Đi kiếm thằng con nhớn của mầy đưa xuống đây!” Một khi đã xảy ra dư vậy là Virgil phải ở hẳn vĩnh viễn mấy bọn gà, trừ phi ông chủ nói khác đi, mà có lẽ chả bao giờ có chuyện í và cả anh lẫn em đều không thể hé ra một tiếng xì xầm…” Anh khoát tay ngăn không cho Matilda ngắt lời. “Khoan! Anh không muốn em cãi lại. Anh đang cố để em thấy là thằng bé cần phải xuống đó ngay bi giờ. Nếu anh đưa nó xuống ngay thì có thể đủ thì giờ để anh dạy nó cho gà ăn khi anh phải đi xa và giúp anh tập gà trong mùa luyện. Rồi còn thì giờ bao nhiêu trong cả năm, nó có thể ra đồng với mấy người cơ mà”. Thấy vẻ mặt căng thẳng của Matilda, anh nhún vai một cách tinh vi và vờ nhẫn nhịn, nói: “Thôi được, vậy thì anh chỉ việc để em giải quyết mấy ông chủ!”

    “Em chỉ tức cái là anh nói cứ dư Virgil đã nhớn í”. Matilda nói: “Anh không biết thằng bé mới sáu tuổi hay sao? Vừa bằng nửa tuổi của anh khi anh bị kéo xuống đấy”. Cô ngừng một lát. “Dưng mà em biết là bi giờ lên sáu, là nó phải làm việc. Cho nên xem chừng không còn cách nào khác là làm theo lời anh, mặc dù quả tình em cứ tức điên lên mỗi khi nghĩ là ba cái con gà í đánh cắp anh đi mất bao nhiêu!”

    “Cứ nghe em mấy mẹ thì có mà! Làm dư gà nó bắt chộp anh đi, mang qua đại dương đến tận đâu đâu í!”

    “Thì cũng dư thế phần lớn thời gian, vì anh đi suốt”.

    “Đi suốt! Thế ai ngồi đây nói chuyện mấy em? Ai ngày nào cũng ở đây cả tháng nầy?”

    “Tháng nầy thì có thể thế, dưng mà ít nữa thì anh lại ở đâu?”

    “Nếu nói về mùa chọi thì ông chủ biểu đi đâu là anh ở đấy. Nếu nói về bi giờ đây thì ăn xong, chắc chắn anh cũng không ngồi đây cho đến lúc có con cáo nào bò vào khu dưới í, chén một vài chú gà, kẻo anh đi tongthực sựmất!”

    “Ờ! Dốt cuộc anh cũng phải đồng ý là ông chủ chả từ bán cả anh nữa nhá!”

    “Anh tin rằng nếu bà chủ để cho gà của ông bị ăn thịt thì ông ấy cũng bán luôn cả bà í”.

    “Nầy”, Matilda nói, “Chúng mình đã thỏa thuận về chuyện Virgil là không phải to tiếng, vậy thời đừng có gây sự cãi cọ về chuyện gì khác nữa”.

    “Anh có khơi chuyện trước đâu, chính là em đấy”.

    “Thôi được, George à, em hết cơn đôi co rồi”. Matilda nói, đặt những bát thức ăn bốc hơi nghi ngút lên bàn. “Anh ăn đi rồi mà về thôi, sáng mai em cho Virgil xuống đấy. Trừ phi anh muốn đưa nó đi ngay bi giờ thì em đi sang bà tìm nó về”.

    “Thôi, mai cũng được”.

    Nhưng trong vòng một tuần, George-Gà thấy rõ là đứa con trai lớn của mình hoàn toàn không có cái đã từng là niềm say mê với gà chọi thuở thiếu thời của anh. Dù nó sáu tuổi hay bao nhiêu đi nữa, George cũng không thể quan niệm được rằng sau khi hoàn thành một công việc được giao, Virgil lại có thể tha thẩn chơi một mình, hoặc chỉ ngồi thừ ra không làm gì ở một chỗ nào đó. Để rồi giật mình bật dậy khi bố nó cáu tiết kêu lên: “Đứng dậy! Mầy tưởng cái nầy là cái gì? Đây không phải lợn, đây là gà chọi!” Sau đó, Virgil sẽ làm khá tốt bất cứ nhiệm vụ mới nào đó được cắt đặt vào, song một lần nữa liếc mắt ngó sang, George lại thấy cậu con trai ngồi thừ hoặc bỏ đi chơi. Sôi máu, anh nhớ lại hồi bé, có bao nhiêu thì giờ rảnh anh chỉ lăng xăng ngắm nghía đàn gà con và gà tơ, bứt cỏ và bắt cào cào cho chúng ăn, lấy thế làm hào hứng khôn xiết.

    Tuy trước kia, cách đào tạo của bác Mingo rất thiết thực và điềm tĩnh - ra một mệnh lệnh, lặng lẽ giám sát, rồi một mệnh lệnh nữa - giờ đây George quyết định thử một phương pháp khác với Virgil, hy vọng làm nó chừa cái thói kia. Anh sẽnói chuyện với nó.

    “Ở trên kia, lúc một mình, con làm gì?”

    “Chả làm gì, bố ạ”.

    “Ờ, thế có hòa thuận mấy các em, có nghe lời mẹ mấy bà không?”

    “Có ạ”.

    “Chắc mẹ mấy bà cho con ăn ngon lắm hả?”

    “Vâng ạ”.

    “Thế con thích ăn gì nhất?”

    “Bất kỳ thứ gì mẹ nấu cho chúng con ạ”.

    Thằng bé thậm chí không có lấy một mảy may tưởng tượng. Anh sẽ thử phương sách khác.

    “Con kể bố nghe chuyện cụ cố, dư con đã làm một lần, xem nào?”

    Virgil ngoan ngoãn làm theo, có phần cứng ngắc. Tim George trĩu xuống. Nhưng sau khi đăm chiêu đứng đó một lúc, thằng bé hỏi: “Bố à, bố có trông thấy cụ cố không?”

    “Không”, anh trả lời, khấp khởi hy vọng. “Bố biết về cụ cũng dư con thôi, do bà kể”.

    “Trước bà thường đi xe một ngựa mấy cụ!”

    “Nhất định rồi! Đấy là bố bà mà. Cũng dư về sau, một hôm nào đó, con kể cho các con của con là con thường hay ngồi đây mấy bố giữa đàn gà”.

    Điều đó hình như làm Virgil ngượng, nó im bặt.

    Sau một số lần cố gắng khập khiễng như vậy nữa, cực chẳng đã, George đành bỏ cuộc, song lại hy vọng có thể may mắn hơn với Ashford, với George và Tom. Không thổ lộ với ai nỗi thất vọng của mình về Virgil, anh tiếc rẻ quyết định dùng thằng bé vào những việc chốc lát, từng lúc, như đã bàn với Matilda chứ không hoài công cố gắng luyện nó thành người phụ tá thường trực toàn-thời-gian như anh đã thực tâm dự định.

    Cho nên, khi George-Gà cảm thấy Virgil đã nắm vững nhiệm vụ cho lũ gà nhỏ và gà tơ trong chuồng ăn và uống mỗi ngày ba lần, anh gửi trả nó về cho Matilda để bắt đầu làm việc ngoài đồng với mọi người - và điều đó xem ra rất hợp với thằng bé. Tuy không bao giờ lộ ra ý nghĩ đó với Matilda, Kizzy hay những người khác, song George-Gà bao giờ cũng cảm thấy khinh thường sâu sắc công việc đồng áng mà anh coi không có gì khác hơn là một sự lao dịch không ngừng, nào cuốc xới dưới ánh mặt trời nóng nực, nào kéo lê những bao tải bông, nào bắt sâu thuốc lá không bao giờ dứt và ngả những thân ngô làm thức ăn cho gia súc, mùa nối mùa bất tận. Với một tiếng cười khúc khích anh nhớ lại lời bác Mingo: “Cứ cho tau chọn giữa một cánh đồng ngô hay bông thật tốt mấy một con gà chọi hay, thể nào tau cũng lấy con gà!” Chỉ nghĩ đến cái điều là một cuộc chọi gà được thông báo ở đâu đó, đã đủ phấn khởi vui vẻ rồi - dù là ở trong một cánh rừng, một bãi cỏ trống để thả bò hay đằng sau chuồng ngựa của một ông chủ nào đó - lập tức không khí náo nhiệt như thể các sư kê đang bắt đầu dồn về đó với những chú gà cất tiếng gáy khàn trong nỗi cuồng vọng muốn thắng hay là chết.

    Vào cái vụ nghỉ ngơi mùa hè này, khi gà đang thay lông, chỉ có công việc thường nhật và George-Gà dần dần trở nên quen với tình trạng không có ai bên cạnh để trò chuyện ngoại trừ lũ gà – nhất là con gà mồi lão tướng lông cộc vốn là con cưng thực sự của bác Mingo.

    “Đáng lý ra mầy có thể biểu chúng tau bác í ốm đến chừng nào chứ, cái con quỷ già mắt vách đất này!” một buổi chiều, anh bảo con gà già như vậy, nó nghênh nghênh đầu một giây như thể biết là anh đang nói với nó, rồi lại tiếp tục mổ bới theo cái cách thường xuyên đói ăn của nó. “Mầy nghe tau nói mấy mầy đây!” George nói, kiểu gắt yêu. “Mầy phải biết là bác í thật là nguy kịch chứ lị!” Trong một lúc, anh đưa mắt uể oải nhìn theo con gà đang sục sạo. “Ờ, tau chắc mầy biết bác í bây giờ mất rồi. Tau không biết mầy có nhớ ông lão dư tau không.” Nhưng con gà mồi già vẫn lảng ra mổ mổ, bới bới, coi bộ chẳng nhớ ai sất và cuối cùng George-Gà ném một hòn sỏi khiến nó vừa chạy biến vừa kêu quang quác. Trong khoảng một năm nữa - George ngẫm ngợi - có lẽ con gà già sẽ đi gặp bác Mingo ở chốn mà các sư kê già và lũ gà của họ tìm đến sau khi chết. Anh tự hỏi điều gì đã xảy đến với con gà đầu tiên của ông chủ - cái con gà chọi xổ-số-hai-mươi-lăm-xu đã khởi đầu sự nghiệp của ông cách đây hơn bốn chục năm. Cuối cùng nó đã ăn một cựa chí tử chăng? Hay nó đã chết già theo cách của một con gà mồi danh dự? Tại sao dạo trước anh không hỏi bác Mingo về chuyện đó nhỉ? Anh phải nhớ hỏi ông chủ mới được. Hơn bốn mươi năm về trước! Ông chủ đã kể với anh là khi được con gà ấy, ông mới có mười bảy tuổi. Tức thị là bây giờ ông khoảng năm mươi sáu, năm mươi bảy gì đó - hơn George-Gà độ ba chục tuổi. Nghĩ về ông chủ, về việc ông ta có trong tay cả người lẫn gà cho đến trọn đời, anh bỗng lan man tự hỏi: cái cảm giác là mình không thuộc về một người nào cả, nó như thế nào nhỉ? Cái cảm giác được “tự do” nó ra sao? Chắc cũng chẳng hay ho gì lắm, nếu không thì ông chủ Lea, cũng như phần lớn những người da trắng đã không ghét dân da đen tự do thậm tệ đến thế. Nhưng rồi anh nhớ đến những lời mà một phụ nữ da đen tự do bán rượu táo (white lightning) cho anh ở Greensboro, đã từng nói với anh: “Mỗi một người tự do chúng tôi là một bằng chứng sống cho dân nhọ đồn điền các anh thấy rằng: là một người da đen không có nghĩa phải là nô lệ. Ông chủ anh không bao giờ muốn anh nghĩ gì về cái đó”. Trong những buổi cô đơn đằng đẵng ở khu gà chọi, George-Gà bắt đầu suy nghĩ triền miên về điều ấy. Anh quyết định sắp tới đây, anh sẽ lân la trò chuyện với một số người da đen tự do anh vẫn gặp nhưng bao giờ cũng lờ đi, những lần đi cùng với ông chủ đến các thành phố.

    Bước dọc theo hàng rào gỗ (split-rail fence), cho lũ gà nhép và gà tơ ăn, uống, George-Gà như mọi lần, vẫn khoái thấy đám gà tơ cất giọng còn non, giận dữ kêu cục cục với anh, như thể đang ôn tập cái khí thế man rợ sắp tới ở trường gà (cockpit). Anh bắt đầu chợt thấy mình nghĩ rất nhiều về chuyện bị sở hữu.

    Một buổi chiều, trong khi đi kiểm tra thường kỳ số gà đang trưởng thành ở bãi thả, anh quyết định tiêu khiển bằng cách thử bắt chước tiếng gáy thách thức của một con trống, một ngón mà anh gần đạt đến độ hoàn hảo. Trước đây, gần như bao giờ cũng vậy, điều đó lập tức khiến một kẻ bảo vệ cáu tiết, giận dữ gáy đáp trả và ngó nghiêng đầu bên này, bên kia tìm kẻ đột nhập mà nó chắc chắn là vừa nghe thấy. Hôm nay cũng thế. Nhưng con gà lẫm liệt từ bụi rậm nhẩy ra đáp lại tiếng nhứ gọi của anh còn đứng đập cánh phành phạch vào mình đến gần nửa phút rồi mới cất tiếng gáy như xé toang buổi chiều thu. Tia nắng chói chang phản chiếu bộ lông óng ánh của nó. Dáng dấp nó hùng mạnh và dữ tợn, từ đôi mắt long lanh đến cặp giò to khỏe màu vàng, với những chiếc cựa lợi hại. Từng phân, từng lạng của thân hình nó biểu trưng sự dũng cảm, tâm hồn và tự do một cách hùng hồn đến nỗi khi quay về, George-Gà nguyện sẽ không bao giờ bắt con gà này để huấn luyện và cắt tỉa. Nó phải được để yên ở đó, giữa lùm thông với bầy mái của mình - không bị đụng chạm và tự do!

    Chương 100

    Mùa chọi gà mới đang nhanh chóng tới gần, song ông chủ Lea không hề nhắc đến New Orleans. George-Gà thực ra, cũng không chờ đợi ông nhắc đến, cách nào đó, anh đã biết là cuộc hành trình đó sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng tại những cuộc đá đối đầu ở địa phương, anh và ông chủ đã gây ấn tượng mạnh mẽ khi hai thầy trò xuất hiện trong cỗ xe thửa bóng lộn có lắp mười hai chuồng gà. Và họ liên tục gặp vận. Đổ đồng, ông chủ Lea cứ năm trận thì thắng xuýt xoát bốn, và George với những con hay nhất trong số gà loại, cũng thành công gần như vậy trong các cuộc đá cáp ở quận Caswell. Đó là một mùa bận rộn đồng thời cũng nhiều lợi lộc, nhưng George đã kịp về nhà khi đứa con trai thứ năm ra đời vào cuối năm ấy. Matilda tỏ ý muốn đặt tên thằng bé này là James. Cô nói: “Trước nay, cách này hay cách khác, James vẫn là cái tên em ưa chuộng nhất trong tất cả các thánh tông đồ”. George-Gà đồng ý với một cái nhăn mặt kín đáo.

    Giờ đây, anh và ông chủ Lea đi đâu bất kể xa, gần, cũng nghe thấy chuyện chống đối người da trắng mỗi ngày một thêm gay gắt. Trong chuyến đi gần đây nhất, một người da đen tự do đã kể với George về Osceola, thủ lĩnh của bộ tộc da đỏ Seminole ở một bang gọi là Florida. Khi người da trắng bắt lại được người vợ da đen của Osceola một nữ nô lệ chạy trốn, anh đã tổ chức một chiến đoàn gồm hai nghìn người Seminole và nô lệ da đen chạy trốn, để truy lùng và phục kích một đơn vị của quân đội Mỹ. Theo lời kể, trên một trăm lính đã bị giết và một lực lượng quân đội lớn hơn nhiều hiện ráo riết truy kích quân của Osceola đang chạy trốn, vừa ẩn náu vừa bắn tỉa từ những đường mòn và ngóc ngách trong vùng đầm lầy Florida.

    Và mùa chọi gà năm 1836 kết thúc chưa được bao lâu thì George-Gà nghe nói là ở một nơi nào đó gọi là “Alamo”, một toán người Mexico đã tàn sát một trại lính da trắng dân Texas, kể cả một nhân viên lâm nghiệp tên là Davy Crockett vốn nổi tiếng là một người bạn và bảo vệ của dân da đỏ. Sau đó, cũng trong năm ấy, anh nghe nói người da trắng lại bị những tổn thất lớn hơn trước sự tấn công của quân Mexico dưới quyền chỉ huy của tướng Santa Anna; người ta nói rằng ông này tự xưng là sư kê cự phách nhất thế giới; nếu đúng thế, George tự hỏi tại sao cho đến nay, anh chưa hề nghe nhắc đến ông ta.

    ………

    Chương 102

    ………

    George-Gà làu bàu nói: “Ta đi tiếp xuống ngó qua lũ gà chăng? Để xem cái thằng George-Con (L'il George) vô tích sự í mắc chuyện gì ở đấy lâu thế. Theo tau biết, chưa chừng bi giờ nó thịt mấy con gà, nấu lên đánh chén mừng Lễ Tạ Ơn cũng nên”.

    Tom cười: “George-Con tốt đấy, bố ạ. Anh í chỉ chậm chạp thế thôi. Anh í từng biểu con anh í cũng yêu gà dư bố” Tom dừng lại một chút, rồi quyết định đánh bạo nêu ý nghĩ tiếp theo của mình: “Con cho rằng trên đời không có ai yêu gà dư bố”.

    Nhưng George-Gà sẵn sàng nhất trí khá nhanh: “Dù sao cũng không ai thế trong cái gia đình này. Bố đã thử tất cả bọn nó rồi - trừ con. Tuồng dư tất cả lũ con trai còn lại của bố đều muốn suốt đời kéo cầy từ đầu nầy đến đầu kia cánh đồng, ngước mắt lên chỉ thấy mông con la!” Anh ngẫm nghĩ một lát: “Nghề rèn của mày, nói cho đúng ra, cũng chưa phải là sống cao sang gì - không gì bằng chọi gà - dưng mà chí ít nó cũng là một công việc lền ông”.

    Tom tự hỏi liệu cha mình có thực sự tôn trọng cái gì ngoài gà chọi không. Nó cảm thấy rất mừng là đã thoát bằng cách nào đó và đi vào cái nghề rèn vững vàng, ổn định. Song nó diễn đạt ý nghĩ của mình một cách quanh co.

    “Con thấy làm ruộng chả có gì xấu, bố ạ. Nếu không có người làm ruộng, chắc không ai có ăn. Con chọn theo nghề rèn cũng dư bố ưng chọi gà, là vì con thích nó và Chúa cho con cái khiếu í. Rành không phải tất cả mọi người cùng thích một thứ dư nhau”.

    “Ờ, chí ít bố mấy con còn biết đường làm ra tền trong khi làm cái mình thích”, George-Gà nói.

    Tôm trả lời. "Hiện mới có bố thôi. Con thì còn phải vài năm nữa mới kiếm được, khi nào con học nghề xong và đi làm cho ông chủ - nghĩa là nếu ông í cho con một ít trong số tền làm ra, dư ông í làm với dững gì bố được khi đá cáp!"

    ………
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/6/17
  8. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Chương 103

    Trong trí nhớ của George-Gà, không gì gây nhộn nhạo trong giới sư kê North Carolina bằng cái tin lan truyền nhanh chóng hồi cuối tháng mười một năm 1855 rằng ông chủ Jewett giầu bự đang đón tiếp thượng khách là một sư kê tước vị, giầu có tương đương từ nước Anh sang, người mang qua đại dương ba mươi con trong số “Gà Chọi Anh” (Old English Game) thuần của ông, nghe nói là giống gà chọi hay nhất trên đời. Theo tin này, vị khách người Anh, Ngài C. Eric Russell, đã chấp nhận thư mời của ông chủ Jewett để đá gà mình với một số con hay nhất ở Mỹ. Bởi là bạn lâu năm, họ không muốn đụng nhau, nên mỗi người sẽ góp hai mươi con để đá với bốn mươi địch thủ bất kỳ nào mà các chủ gà chọn lọc được mong đợi sẽ cá một nửa trong số 30,000 đô-la tiền độ (main pot), và 250 đô-la là khoản cáp ngoài (side bet) tối thiểu được phép mỗi trận. Một sư kê giàu có khác ở địa phương xung phong sắp xếp bốn mươi địch thủ--chỉ chấp nhận năm con mỗi người từ bảy chủ gà khác ngoài chính ông ta.

    Với ông chủ Lea, ông thực sự chẳng cần phải nói với tay luyện gà kỳ cựu của mình rằng ông đang nhắm nhe một phần của khoản tiền độ khổng lồ này.

    “Thế đấy”, ông nói lúc trở về đồn điền sau khi đóng 1,875 đô-la tiền thế chân (bond) của mình, “chúng ta có sáu tuần để luyện năm con gà”.

    “Vâng thưa ông, cháu nghĩ có thể làm được việc í”, George-Gà trả lời, cố hết sức--mà chẳng thành công--để khỏi lộ ra sự kích động. Bên cạnh nỗi hồi hộp sâu sắc của bản thân khi nghĩ về một cuộc đấu ghê gớm đến vậy. George-Gà còn hân hoan nói với gia đình tề tụ xóm nô rằng ông cảm thấy như chỉ riêng sự phấn khởi đã khiến cho ông chủ Lea trẻ ra đến hai mươi lăm tuổi. “Rành là họ đá lớn hơn bất kỳ tay đá cáp nào!” ông kêu lên. “Ông chủ biểu rành đây là trận lớn nhất mà ông từng nghe nói ở bất cứ đâu--mà thực ra là trận lớn thứ nhì ông í thấy”.

    “Gớm, thế trận nào lớn hơn?” bác Pompey kêu lên.

    George-Gà nói: “Ước chừng hai mươi năm trước, ông chủ Nicholas Amngton giầu nứt đá đổ vách gần Nashville, Tennessee, đem mười một xe tải phủ kín, hăm hai người, và ba trăm gà, đi qua không biết bao nhêu bang, qua mặt cả bọn cướp và dân da đỏ, và đủ mọi thứ, cho đến khi tới Mexico. Họ chọi với ba trăm con gà khác của tổng thống Mexico, một ông tướng Santa Anna lắm tền đếm không xuể, và thề thốt rằng mình nuôi được dững con gà chọi hay nhất thế giới. Chà, ông chủ biểu cuộc đấu gà của hai người kéo suốt một tuần liền! Cá to đến nỗi khoản độ là một cái rương đầy tền! Ông chủ biểu khoản cáp ngoài của họ có thể làm sạt nghiệp dững tay giàu nhất. Rốt cuộc, cái ông chủ Amngton ở Tennessee í ăn được quãng nửa triệu đô-la! Ông ta gọi đám gà của mình là “Tony Què”, theo tên của gã nhọ què luyện gà cho mình là Tony. Còn cái ông tướng Mexico Santa Ana nọ thèm muốn một con “Tony Què” làm giống, đến nỗi ông trả nó bằng giá vàng cân! (weight in gold)”.

    “Bi giờ tui mới thấy giá mình đi vào nghiệp chọi gà có phải hơn!” bác Pompey nói.

    Hầu hết sáu tuần sau, họa hoằn lắm mới thấy George-Gà và ông chủ Lea ở đồn điền. “May mà ông chủ cứ ở liền dưới í với gà, vì bà chủ đang cáu dư điên!” dì Malizy nói với mọi người ở xóm nô vào cuối tuần thứ ba. “Tui nghe thấy bà tru tréo ông về chuyện rút năm nghìn đô-la khỏi nhà băng. Thấy bà í biểu chỗ nầy gần bằng nửa số hai vợ chồng dành dụm suốt đời, rồi bà í gào thét và làm ỏm tỏi cả lên vì nỗi ông chồng cứ cố đua đòi mấy dững ông chủ giàu thật là giàu, nhều tền gấp nghìn lần ông í. Sau khi quát bà vợ im mồm và hẵng lo lấy công việc thổ tả của chính mình đã, ông chủ hiên ngang bước ra khỏi nhà”, dì Malizy kể.

    Lầm lì nghe, không nói câu gì, là Matilda và gã Tom hai mươi hai tuổi, người bốn năm trước đã trở về đồn điền, dựng một tiệm rèn đằng sau chuồng ngựa, nơi anh hiện đang làm ăn phát đạt vì lợi ích của ông chủ Lea. Tức sôi sùng sục, Matilda đã tâm sự với con trai về chuyện George-Gà hùng hổ đòi lấy số tiền hai nghìn đô-la dành dụm, để giao cho ông chủ đặt cược vào đám gà Lea. Matilda cũng đã tru tréo và khóc lóc trong nỗ lực tuyệt vọng để phân giải thiệt hơn cho George-Gà, “Cơ mà ông í cư xử cứ dư hóa dại!” bà kể với Tom. “Ông í quát mẹ: Nầy mụ, ta biết từng con gà nhà nầy từ lúc tụi nó còn trong trứng. Có ba hay bốn con không loài có cánh nào đánh nổi! Ta không thể bỏ qua dịp may nầy để nhân lên đúng gấp đôi dững gì chúng ta đã dành dụm được, chẳng gì nhanh hơn một con gà của ta đá chết con kia! Hai phút có thể đỡ cho chúng ta đến tám, chín năm bòn rút và dành dụm để chuộc lại tự do!”.

    “Mẹ à, con biết mẹ đã biểu bố là nếu gà mình thua thì lại phải bắt đầu để dành lần nữa!” Tom thốt lên.

    “Không phải mẹ chỉ nói mấy ông í có thế! Mẹ đã cố hết sức mình tọng vào đầu ông í rằng ông í không có quyền đánh bạc mới tự do của chúng ta! Cơ mà ông í nổi điên lên thật sự, gầm thét: “Không cách nào bọn ta thua được! Mụ đưa tền cho ta!”. Và Matilda đã phải làm theo, bà kể với Tom, mặt đờ đẫn.

    Ở khu gà chọi, George-Gà và ông chủ Lea đã hoàn thành việc lọc loại từ mười bảy con thả bãi (range walk) tốt nhất xuống còn mười con hay nhất, mà cả hai chưa từng thấy. Rồi họ bắt đầu tập bay (air-training) cho mười con đó, mỗi ngày thảy (toss) chúng một cao hơn, cho tới sau cùng, tám con trong số này bay cao hơn cả chục thước trước khi chân chạm đất. “Y dư thể chúng ta đang luyện gà tây rừng í ông chủ”, George-Gà cười khanh khách.

    “Chúng nó sẽ cần phải là diều hâu để đọ lại với gà của Jewett và vị khách người Anh ấy”, ông chủ nói.

    Khi cuộc đấu lớn chỉ còn cách một tuần nữa, ông chủ cưỡi ngựa đi và cuối ngày hôm sau, ông trở về với sáu đôi cựa thép (steel gaff) Thụy Điển vào loại tốt nhất có thể kiếm được dài và sắc như dao cạo, đầu nhọn như mũi kim.

    Sau lần đánh giá gắt gao cuối cùng hai ngày trước trận đấu, cả tám con đều hoàn hảo đến nỗi không thể phân định năm con nào trội nhất. Thành thử ông chủ đành quyết định mang đi cả tám và đến phút chót sẽ chọn trong đám ấy.

    Ông ta bảo George-Gà rằng họ sẽ lên đường vào nửa đêm hôm sau để đến nơi đủ sớm cho cả người lẫn gà đều được nghỉ ngơi lại sức sau chặng đường dài và sảng khoái bước vào trận đấu lớn. George-Gà biết ông chủ cũng nôn nóng tới đó như mình.

    Hành trình dài trong đêm tối không gặp sự cố gì. Khi đánh xe, mắt ông uể oải nhìn chiếc đèn treo ngời sáng lắc lư ở đằng mũi xe giữa hai con la, George-Gà ngẫm nghĩ với những cảm giác xáo trộn về cuộc va chạm tình cảm vừa rồi giữa mình với Matilda xung quanh chuyện tiền nong. Ông bực dọc nghĩ về việc cái món tiền ấy là kết quả bao năm kiên trì dành dụm thì ông còn biết rõ hơn bà chứ lại; nói cho cùng, chẳng phải những thắng lợi hết năm này sang năm nọ của ông trong các cuộc đá cáp đã kiếm ra nó hay sao? Hẳn ông không lúc nào cảm thấy Matilda chưa tròn phận sự làm vợ, nên ông tiếc là mình đã phải thét lác át giọng bà, khiến bà nháo nhác đến thế, như ông chủ cũng buộc phải làm thế trong đại sảnh, nhưng mặt khác, có những khi người chủ gia đình phải dứt khoát hạ những quyết định cứng rắn, quan trọng chứ. Ông lại như nghe thấy tiếng kêu đầy nước mắt của Matilda: “George, anh không có quyền đánh bạc mới tự do của tất cả chúng ta!” Làm sao mà bà chóng quên đến thế rằng chính ông là người đầu tiên đề ra ý kiến cóp nhặt sao cho đủ để mua lại tự do cho cả nhà! Và sau ngần nấy năm dành dụm chậm rề rề, giờ đây ông chủ tâm sự rằng ông ta cần thêm tiền mặt để cáp ngoài trong những trận đấu sắp tới, không phải chỉ nhằm phô trương trước các ông chủ phú quý, trưởng giả hợm hĩnh kia, mà còn nhằm vơ tiền của họ nữa, thì đó chẳng phải vận trời cho thì còn là gì? George-Gà nhe răng cười một mình, khoái trá nhớ lại vẻ kinh ngạc tột độ của ông chủ Lea khi nghe thấy ông nói: “Cháu có độ hai nghìn đô-la tền để dành, ông có thể dùng để cá, ông chủ ạ”. Trấn tĩnh lại sau phút sửng sốt, ông chủ Lea đã thực sự nắm lấy tay người luyện gà của mình lắc đi lắc lại, hứa sẽ cho George-Gà nhận tất cả tiền được giải trong những khoản cá dùng đến tiền của ông, và tuyên bố: “Mày phải nhân gấp đôi số tiền đó, muốn thế nào thì thế!” Ông chủ lưỡng lự một chút rồi hỏi : “Nhỏ này, rồi mày làm gì với bốn nghìn đô-la?”.

    Lúc đó, George-Gà đã quyết định đánh một nước bài thậm chí còn lớn hơn nước trước, bộc lộ lý do tại sao dành dụm lâu thế và ráo riết thế. “Ông chủ ạ, ông đừng có hiểu nhầm gì cháu, cháu dặt chỉ có tình cảm tốt nhất mấy ông mà thôi, ông chủ ạ. Dưng mà cháu mấy Tilda mới nói chuyện và thưa ông chủ, chúng cháu đã quyết định thử xem có thể mua lại của ông cả vợ chồng con cái và sống tự do nốt những ngày còn lại hay không!” Thấy ông chủ Lea rõ ràng bị bất ngờ, George-Gà lại nài nỉ: “Lạy Chúa, xin ông chớ hiểu nhầm chúng cháu, ông chủ”…

    Nhưng rồi vào một trong những trải nghiệm nồng ấm nhất trong đời George-Gà, ông chủ Lea nói: “Này nhỏ, ta sẽ nói cho con biết ta nghĩ gì về cuộc chọi gà chúng ta sắp tham gia. Ta đồ rằng nó là cuộc chọi lớn cuối cùng của ta. Thậm chí ta nghĩ là con không hiểu, ta nay đã bảy mươi tám tuổi rồi. Hơn năm mươi năm, mùa nào ta cũng ngược xuôi lo lắng nào nuôi gà, nào chọi gà. Ta ớn chuyện ấy rồi. Con nghe ta chứ? Ta nói cho con biết, nhỏ ạ! Với phần tiền độ và các khoản cáp ngoài của ta, ta hy vọng được một món đủ để xây cho vợ chồng ta một ngôi nhà nữa--không phải là tòa lâu đài lớn như ta đã từng muốn một thời, mà chỉ năm, sáu buồng mới, chúng ta chỉ cần có thế thôi. Và trước lúc con nêu vấn đề thì ta cũng chưa nghĩ tới, song quả thật đến lúc bấy giờ, cũng chả cần nuôi cả một đống nhọ chúng mày làm gì. Chỉ cần Sarah và Malizy cũng có thể nấu nướng và chăm nom vườn tược cho tốt để chúng ta sống vào đó và có kha khá tiền ở nhà băng, khỏi phải xin xỏ ai cái gì”…

    George-Gà gần như nín thở trong khi ông chủ Lea nói tiếp: “Cho nên ta sẽ nói cho con biết thế này, nhỏ ạ! Các con đã hầu hạ ta tốt và chưa hề gây rắc rối thực sự cho ta. Ông con ta sẽ thắng lớn cuộc chọi gà này, ít ra là gấp đôi số tiền của cả hai ta, phải, con chỉ cần đưa ra số tiền con sẽ có, bốn nghìn đô-la, thế là giữa chúng ta coi như xong! Và mày cũng biết như ta là đám nhọ nhà mày đáng giá gấp đôi thế! Tình thật, ta chưa nói cho con biết chuyện này bao giờ, có lần cái lão nhà giàu Jewett đã xin mua riêng mày với giá bốn nghìn đô-la mà ta từ chối phăng, cho lão tưng hửng! Phải, cả bọn mày có thể được tự do nếu đó là điều mày muốn!”.

    Đột nhiên ứa nước mắt, George-Gà đã nhảy bổ tới định ôm chầm lấy ông chủ Lea, nhưng ông này bối rối né nhanh sang một bên. “Ôi, Lạy Chúa ông chủ, ông có biết ông đang nói gì không? Chúng con muốn được tự do xiết bao!” Giọng ông chủ Lea đáp lại khàn đi một cách kì lạ. “À, ta không biết bọn nhọ chúng bay, khi được tự do, sẽ làm gì nếu không ai để mắt tới bọn bay. Và ta biết bà vợ ta sẽ làm rinh thiên địa về chuyện ta cứ buông tha bọn bay, dù thế nào mặc lòng. Mẹ kiếp, riêng cái thằng Tom thợ rèn đã đáng đứt hai nghìn rưởi, chưa kể nó còn kiếm tiền tốt cho ta nữa!”.

    Ông chủ dúi mạnh George-Gà một cái. “Cút đi, nhọ, trước khi ta thay đổi ý kiến! Mẹ kiếp! Hẳn là ta điên! Nhưng ta hy vọng vợ mày và mẹ mày cùng cả bọn nhọ nhà mày thấy ra là ta không đến nỗi xấu như ta biết chúng đã thường nghĩ”.

    “Ồ, không ạ, không ạ, thưa ông chủ, cảm ơn ông, dạ thưa ông chủ!” George-Gà luýnh quýnh lui lại trong khi ông chủ vội vã bỏ đi ngược con đường về phía đại sảnh.

    Hơn lúc nào hết, giờ đây George-Gà những muốn giá cuộc đụng độ gay gắt với Matilda đừng xảy ra. Giờ đây, ông quyết định tốt nhất là cứ giữ kín điều bí mật đắc ý của mình để cho Matilda, bà mẹ Kizzy của ông và cả gia đình, khi biết mình được tự do, sẽ hoàn toàn bị bất ngờ một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, tâm tư như muốn bung ra với điều bí mật đó, mấy lần ông suýt ngỏ với Tom, song cứ đến phút cuối cùng, ông lại thôi, vì mặc dầu đã là người lớn hẳn hoi Tom vẫn gần gũi cả mẹ lẫn bà đến mức có thể kể lại với họ đồng thời bắt họ thề giữ kín, thế là lộ bét. Lại nữa, làm thế sẽ có thể khuấy động trong bọn họ một vấn đề rất bầy nhầy là, theo lời ông chủ nói, họ sẽ phải bỏ chị Sarah, dì Malizy, và bác Pompey ở lại, mà những con người này có khác nào gia đình thân quyến họ.

    Cho nên suốt những tuần chờ đợi, George-Gà, tù hãm với điều bí mật của mình, đành dốc hết tâm lực, vùi đầu vào việc rèn giũa đến mức hoàn hảo tuyệt đối tám con gà chọi chung tuyển hiện đang yên ổn trong lồng đằng sau ông và ông chủ Lea, trong cỗ xe thổ mộ tự chế đồ sộ đang lăn bánh trên con đường cô quạnh xuyên qua đêm tối. Chốc chốc, George-Gà lại tự hỏi không biết ông chủ Lea trầm lặng một cách khác thường này đang nghĩ gì.

    Đến rạng sáng, trong ánh ban mai, họ trông thấy một đám người rất đông và lộn xộn; mặc dầu còn sớm thế, đám này chẳng những đã đứng chật kín trường gà (fighting area), mà còn tràn sang cả một đồng cỏ bên cạnh, tại đó chẳng bao lâu đã ùn ùn những xe thổ mộ (wagon), xe song mã (carriage), xe một ngựa (buggy), xe thồ (cart) cùng với những chú la và ngựa khịt mũi ầm ĩ.

    “Tawm Lea!” Một tốp dân nghèo gọi to khi vừa trông thấy ông chủ từ cỗ xe đồ sộ trèo xuống. “Cho họ biết tay, Tawm!”. Đang khi chỉnh lại chiếc mũ quả dưa đen của mình, George-Gà nhìn thấy ông chủ thân ái gật đầu với họ, song vẫn tiếp tục đi thẳng. Ông biết ông chủ phân vân giữa bối rối và tự hào, trước danh tiếng của mình trong đám dân nghèo. Thực vậy, sau nửa thế kỷ ở vai trò sư kê, ông chủ Lea đã thành một huyền thoại ở bất kỳ nơi nào có đá gà, vì ngay cả ở cái tuổi bảy mươi tám, bản lĩnh thả gà (handle) đá trường của ông dường như vẫn không sút giảm.

    George-Gà chưa bao giờ nghe thấy một hỗn tấu của những tiếng gáy inh ỏi đến như thế, trong khi ông bắt đầu tháo dỡ đồ lề để vào cuộc. Một nô lệ luyện gà, đi qua dừng lại, nói cho ông biết là trong đám đông, có nhiều người đã đi nhiều ngày từ các bang khác tới, thậm chí cả từ Florida. Vừa nói chuyện vừa liếc mắt ngó quanh, George-Gà thấy khu vực thường lệ dành cho khán giả đã mở rộng hơn gấp đôi, vậy mà đã chen chúc những người đến xí chỗ. Trong số những người liên tục đi qua chỗ xe đỗ, ông thấy những khuôn mặt lạ lẫm, cả da trắng lẫn da đen, cũng như những khuôn mặt quen thuộc và ông lấy làm hãnh diện khi nhiều người thuộc cả hai chủng tộc, khẽ huých đồng bạn và thì thầm, hiển nhiên là đã nhận ra ông.

    Sự lao xao phấn khích của cái đám hổ lốn ấy càng dâng cao hơn nữa khi ba quản trường (judge) ra sới (cockpit) và bắt đầu đo đạc, đánh dấu các mức (starting lines). Một tiếng lao xao khác nổi lên khi một con gà chọi của ai đó xổng ra và lồng lộn tấn công mọi người trên đường chạy của nó, thậm chí làm một con chó kêu oăng oẳng, mãi cho đến lúc nó bị dồn vào một góc và bắt lại. Và cứ mỗi khi thấy và nhận ra bất kỳ ai trong số những sư kê nổi tiếng trong vùng - đặc biệt số còn lại trong tám người sẽ đấu với các ông chủ đăng cai, Jewett và Russell - tiếng ồn ào của đám đông lại rộ lên.

    “Tôi chưa bao giờ thấy người Anh nào cả, còn ông?” George-Gà nghe hóng thấy một tay da trắng nghèo hỏi một người khác, tay này đáp là mình cũng vậy. Ông cũng nghe người ta nói về sự giàu có của tay người Anh tước vị này, rằng không những ông ta có một gia sản khổng lồ ở nước Anh, mà còn nắm giữ nhiều tài sản ở những nơi gọi là Scotland, Ireland và Jamaica nữa. Và nghe nói ông chủ Jewett đã hãnh diện khoe với bạn bè là vị khách sẵn sàng cho gà của mình đá bất kỳ lúc nào, ở bất kỳ đâu, trước bất kỳ đối thủ nào, với bất kỳ khoản tiền độ nào.

    George-Gà đang băm nhỏ mấy quả táo để cho gà ăn thì đột nhiên tiếng ồn ào của đám đông rộ lên thành tiếng gào thét--và đứng vội lên trong xe, ông nhận ra chiếc xe ngựa có mái che (canopied surrey) được điều khiển bởi bác tài da đen mặt luôn lạnh lùng của ông chủ Jewett đang tiến lại gần. Đằng sau là hai ông chủ đại phú mỉm cười và vẫy tay với đám đông, vốn đổ ra dày đặc xung quanh họ đến nỗi đôi tuấn mã tương xứng với cỗ xe phải chật vật mới tiến lên được. Và theo sau không xa là sáu chiếc xe thổ mộ, chất đầy những chuồng gà cao ngất, chiếc đầu do gã da trắng luyện gà cho ông chủ Jewett điều khiển; ngồi cạnh gã này là một người da trắng gầy gò, mũi nhọn mà George-Gà nghe lỏm thấy một người đứng gần đó bảo rằng tay người Anh giàu có, tước vị đã đưa qua đại dương chỉ cốt để chăm nom đàn gà của ông.

    Nhưng bản thân nhà quý tộc người Anh thấp tè, vóc người chắc nịch, da dẻ đỏ au và ăn vận kỳ cục mới là trọng tâm chú ý của đám đông xung quanh, khi ông ta sánh đôi cùng ông chủ Jewett trong xe, cả hai đều có mẽ của bậc yếu nhân, thậm chí quý tộc nữa, tay người Anh coi bộ còn tỏ ra tí chút khinh khi và kiêu kỳ đối với đám đông chen vai thích cánh dưới đất.

    George-Gà đã dự quá nhiều cuộc chọi gà, nên ông quay về với công việc của mình là xoa bóp chân và cánh cho lũ gà nhà, biết chắc qua kinh nghiệm rằng những âm thanh khác nhau của đám đông sẽ mách bảo ông về mọi thứ đang diễn ra, mà không cần phải nhìn. Chẳng mấy chốc, một trọng tài hô to để dẹp mọi tiếng hò hét, huýt sáo và tranh cãi ầm ĩ, chứng tỏ nhiều người trong đám đã nốc say bí tỷ.

    Rồi ông nghe thấy thông báo đầu tiên: “Ông Fred Rudolph ở Williamstown đá con gà điều (red) của mình với con chuối bông (speckled gray) của ngài C. Eric Russell từ nước Anh”.

    Rồi: “Cho gà cắn mổ! (bill)”.

    Và rồi: “Thả!” (pit) và tiếng hò reo của đám đông tiếp theo là một sự im lặng kinh hãi đột ngột, cho ông biết rõ như thể ông đang chứng kiến bằng mắt, rằng con gà của tay người Anh đã chiến thắng một cách mau lẹ. Trong khi mỗi người trong số tám chủ gà thách đấu lần lượt xuất năm con của mình để chọi xen kẽ với một con hoặc của ông chủ Jewett hoặc của vị khách người Anh, George-Gà chưa bao giờ nghe thấy tiếng hàng xáo (sidebetting) om sòm như thế trong đời và các trận đấu trong sới thường được cáp (match) thông qua đấu khẩu giữa đám đông cùng tiếng trọng tài (referee) hô hào im lặng. Thỉnh thoảng, tiếng ồn ào của đám đông mách bảo George-Gà bận rộn biết rằng cả hai con cùng bị tang (hurt) nặng tới mức trọng tài cho ngừng đá để các chủ gà chữa chạy (doctor) cho chúng trước khi trận đấu tiếp tục. Bằng vào một cách gào rú đặc biệt của đám đông, George có thể nói đúng những lần hiếm hoi gà của một trong hai nhà phú hộ bị thua, và ông bứt rứt tự hỏi chừng bao nữa đến lượt ông chủ Lea. George đoán là các quản trường phân định thứ tự của các đấu thủ bằng cách bốc thăm những mảnh giấy ghi tên của họ đặt trong một cái mũ.

    Ông cũng muốn xem ít ra là vài trận đấu cụ thể, song còn biết bao chuyện phải lo! Ông không thể ngừng xoa bóp, dù chỉ một lúc. Ông thoáng nghĩ đến món tiền kếch xù, một phần trong đó là những năm ăn nhịn để dành của mình, mà ông chủ chỉ việc đợi để cáp trên chính những con gà đang được ông nhẹ nhàng lần ngón tay nắn bóp từng bắp thịt. Mặc dù sẽ chỉ có năm con được chọn ra đấu, nhưng không thể đoán được là năm con nào, nên cả tám con đều phải ở trong tình trạng tuyệt hảo về điều kiện thể chất và mức độ sẵn sàng. George-Gà không mấy khi cầu nguyện trong đời, nhưng giờ đây ông đang làm điều đó. Ông cố hình dung nét mặt Matilda sẽ ra sao, khi thoạt tiên ông trở về và ném vào lòng bà món tiền chí ít cũng đã tăng gấp đôi, rồi sau đó, khi ông đề nghị bà tập hợp cả gia đình lại để báo tin là họ đã được TỰ DO.

    Rồi ông nghe thấy trọng tài hô: “Năm con gà thách đấu tiếp theo được sở hữu và thả bởi ông Tom Lea ở quận Caswell!”.

    Tim George nhảy thót đến họng! Chụp chiếc mũ quả dưa chặt hơn trên đầu, ông nhảy xuống xe, biết là bây giờ ông chủ sắp đến chọn con đầu tiên.

    “Taaaaawm Lea!”. Chùm lên tiếng ồn ào của đám đông, ông nghe thấy đám dân nghèo hò reo tên ông chủ. Rồi những tiếng la khàn khàn quấy đảo ào lên, khi một tốp người nhô ra khỏi đám đông, vây quanh ông chủ. Đi giữa bọn họ tới chỗ chiếc xe, ông khum tay trên miệng và cố át tiếng huyên náo, hét vào tai George: “Những tay này sẽ giúp chúng ta đem tất cả gà đến cạnh sới”.

    “Vâng, thưa ông chủ”.

    George lại nhảy trở lên xe, chuyền tám cái chuồng gà xuống cho những người bạn da trắng nghèo của ông chủ, trong óc vụt nghĩ rằng trong ba mươi bảy năm theo nghiệp chọi gà, ông chưa bao giờ hết ngạc nhiên trước vẻ ngoài hoàn toàn bình tĩnh, thản nhiên của ông chủ Lea trong những lúc căng thẳng như hiện giờ. Rồi cả bọn kéo ra sới, xuyên qua đám đông, ông chủ Lea mang con gà tuyệt đẹp màu vàng sẫm (dark buff) mà ông đã chọn để chọi đầu tiên và George-Gà đi sau cùng, xách chiếc giỏ đựng thuốc cấp cứu, lông bụng thỏ, một mớ lá thường xuân tươi, sáp glycerin, một búi mạng nhện và nhựa thông. Càng đến gần bãi chọi, càng phải xô đẩy dữ mới tiến được, trong khi vang lên bên tai họ những giọng say bét nhè: “Tawm Lea!” hoặc đôi khi: “Đó là gã nhọ George-Gà của ông í!” Và George có thể cảm thấy những con mắt dò xét mình như thể chúng là những ngón tay, điều đó thật dễ chịu song ông vẫn tiếp tục vừa tiến bước vừa nhìn thẳng trước mặt, cố làm ra vẻ tỉnh bơ như ông chủ.

    Và George-Gà trông thấy tay người Anh tước vị, thấp, lùn thản nhiên đứng cạnh sới, cánh tay trái gập lại kẹp một con gà tuyệt đẹp, trong khi đôi mắt cảnh giác đánh giá cái đám rước nhỏ đang rinh lũ gà khiêu chiến tới. Sau trao đổi những cái gật đầu ngắn với ông chủ Lea, Russell đặt con gà của mình lên bàn cân và trọng tài xướng: “Năm pound mười lăm ounce!”. Bộ lông xám chuối (silvery blue) của con gà xinh đẹp sáng rực dưới ánh mặt trời.

    Rồi ông chủ bước lên với chú gà vàng sẫm của mình, một trong những con đặc biệt ưa thích của George-Gà. Nó cường lực, man dại, cổ ngọ nguậy như con rắn chuông, cặp mắt đằng đằng sát khí, và nó sôi sục muốn được thả ngay. Khi trọng tài hô: “Chẵn sáu pound!” thì đám hâm mộ da trắng nghèo và nát rượu bèn hò reo cứ như thể hơn một ounce là đã thắng rồi. “Taaaaawm Lea! Xơi tái tay người Anh í đi, Tawm! Cứ dư thể hắn ghê lắm nhể! Cho hắn hết vênh váo đi nào!”.

    Rõ ràng những tay hâm mộ đặc biệt ông chủ Lea đã thực sự say bét nhè và George-Gà thấy một thoáng sầm mặt vì bối rối của cả ông chủ lẫn tay người Anh, vờ như không nghe thấy gì, họ quỳ xuống buộc cựa thép cho gà của mình. Thế nhưng những tiếng hò càng to lên và thô lỗ hơn “Hắn chọi gà hay vịt ấy nhể?”... “Khôông, ấy là gà biết bơi mà!”... “Dồi! Hắn cho chúng xơi cá mà!” Mặt tay người Anh đầy vẻ phẫn nộ. Trọng tài bắt đầu lao tới lui, giận dữ vung tay hét lớn: “Xin quý vị!”. Nhưng tiếng cười chế giễu chỉ lan rộng thêm và những lời châm chọc trở nên cay độc hơn: “Hắn mặc áo choàng đỏ nhằm cái trò vè gì nhỉ?”, “Hắn có chọi cáo nữa không nhỉ?”… “Khôông, quá chậm, lạch bạch cứ như con possum í“... “Giống con ếch ộp hơn!”... “Tôi nom hắn giống như con chó săn ấy!”.

    Ông chủ Jewett sải bước ra, giận dữ tới giáp mặt trọng tài, hai tay chém vào không khí, nhưng những lời ông chìm đi trong tiếng hô đồng thanh: “Tawmmm Lea...! Tawmmmmm LEA...!”. Lúc này cả các quản trường cũng nhập với trọng tài lăng xăng hết chỗ này sang chỗ khác, vung cánh tay, giơ nắm đấm và thét lác liên hồi: “Trận đấu sẽ ngừng trừ phi có yên lặng!”… “Các người muốn như vậy, thì cứ tiếp tục đi!”. Dần dà, những tiếng kêu la và cười cợt bét nhè bắt đầu dịu xuống. George-Gà thấy mặt ông chủ Lea như phát ốm vì xấu hổ và cả tay người Anh lẫn ông chủ Jewett đều nhợt nhạt tột độ.

    “Ông Lea!” Khi tay người Anh đột ngột và cao giọng bật ra tiếng ấy, đám đông hầu như im bặt ngay tức thì.

    “Ông Lea, cả hai chúng ta đều có những con gà tuyệt diệu như thế này ở đây tôi không biết ông có ưng cùng tôi làm một khoản cáp ngoài đặc biệt hay không?

    George-Gà biết là từng người trong số hàng trăm khán giả đều cảm thấy như ông cái giọng hằn học và hạ cố của tay người Anh đằng sau cung cách lịch sự của hắn. Gáy của ông chủ, như ông thấy, bỗng đỏ lên vì tức giận.

    Câu trả lời rắn rỏi của ông chủ Lea đến trong vài giây sau: “Cái đó cũng hợp ý tôi, thưa ngài. Ngài đề nghị đặt bao nhiêu?”.

    Tay người Anh ngừng lại. Vẻ như ông đang cân nhắc vấn đề trước khi nói. “Liệu mười nghìn đô-la có đủ không?”.

    Ông ta để cho đợt sóng ồ! à! hào hển tràn khắp đám đông rồi: “Có nghĩa là, trừ phi ông không tin lắm ở triển vọng của gà mình, thưa ông Lea”. Ông ta đứng nhìn ông chủ nụ cười mỏng môi rành rành lộ vẻ khinh bỉ.

    Tràng sấm cảm thán ngắn ngủi của đám đông mau chóng xẹp xuống thành sự im lặng ghê sợ; những người vừa nãy ngồi, giờ đứng hẳn cả lên. Tim George-Gà như ngừng đập. Như một tiếng vang xa xăm, ông nghe thấy dì Malizy thuật lại cơn tam bành của bà chủ Lea, bà ta gào lên rằng cái món năm nghìn đô-la ông chủ đã rút ở nhà băng là “ngót nghét nửa số tiền dành dụm suốt cả đời họ”. Cho nên George-Gà biết ông chủ Lea không thể cả gan nhận cá. Nhưng liệu ông có thể trả lời thế nào để khỏi bị nhục nhã cực kỳ trước cái đám đông gồm hầu hết những người ông quen biết này? Chia sẻ nỗi quằn quại của ông chủ mình, George-Gà thậm chí không dám nhìn ông nữa. Dường như một thiên thu đã trôi qua, rồi George-Gà chợt nghi ngờ tai mình.

    Giọng ông chủ Lea căng thẳng: “Thưa ngài, liệu ngài có bằng lòng gấp đôi số ấy không? Hai mươi nghìn!”.

    Toàn thể đám đông trút ra những tiếng kêu hoài nghi giữa lao xao chuyển động náo nức. Hoàn toàn kinh hãi George-Gà hiểu rằng món tiền ấy là tất tật cả vốn liếng ông chủ Lea có ở trên đời, nhà cửa ruộng đất và nô lệ của ông ta cộng thêm số tiền tiết kiệm của George-Gà. Ông trông thấy vẻ kinh ngạc tột độ của tay người Anh trước khi mau chóng trấn tĩnh lại, bộ mặt giờ đây nghiêm nghị và quyết tâm. “Một nhà thể thao đích thực!” (true sportsman) Y thốt lên, chìa tay cho ông chủ Lea “Xin nhận cá, thưa ngài! Nào ta hãy lắp cựa (heel) cho gà!”.

    Lúc bấy giờ, George-Gà đột nhiên hiểu ra: ông chủ Lea biết là con gà vàng sẫm tuyệt vời của mình sẽ thắng. Chẳng những ông chủ phút chốc trở nên giàu có, mà chiến thắng quyết định này sẽ khiến ông mãi mãi là một huyền thoại anh hùng đối với tất cả đám dân nghèo, một biểu tượng có thể thách thức và đánh bại cả những ông chủ dòng dõi, giàu sang phú quí! Từ nay, không kẻ nào trong bọn họ còn thể nhìn Tom Lea dưới tầm con mắt nữa!

    Giờ đây, cả ông chủ Lea và tay người Anh đều lom khom ở hai đầu sới và trong khoảnh khắc đó, George-Gà như thấy cả cuộc đời con gà của ông chủ vụt lướt qua tâm trí mình. Ngay từ khi còn là con gà nhép (cockerel), những phản xạ nhanh không tưởng tượng được của nó đã khiến George chú ý từ đầu; rồi đến lúc choai choai (stag), tính hung hãn kỳ lạ khiến nó luôn luôn tìm cách tấn công những con khác qua kẽ chuồng; và gần đây khi được bắt về từ bãi thả, trong mấy giây, tí tẹo nữa thì nó giết chết con mồi già (catch cock) trước khi nó bị chặn lại. Ông chủ đã chọn con gà này vì hiểu nó khôn ngoan, hung dữ và gan lỳ (deep game) biết bao. Chỉ thoáng trong giây lát, George-Gà lại như nghe thấy Matilda phẫn uất kêu: “Anh còn điên hơn cả ông chủ! Tệ lắm thì ông í cũng chỉ trở lại làm dân nghèo kiết xác là cùng, dưng mà đàng này anh đánh bạc với tự do của cả gia đình trên mấy con gà!”.

    Rồi ba vị quản trường bước ra, chiếm lĩnh vị trí đồng đều quanh sới. Trọng tài rón rén như thể đứng trên trứng. Phảng phất một không khí tựa hồ như mọi người ở đây đều biết họ sắp được chứng kiến một cái gì sẽ là đầu đề để họ chuyện trò bàn tán cho đến hết đời. George-Gà trông thấy ông chủ mình và lão người Anh ghìm đôi gà hăng hái xuống, cả hai bộ mặt đều ngẩng lên theo dõi môi trọng tài:

    “Thả!”.

    Con gà xám chuối và con vàng sẫm loang loáng lao vào nhau, đụng thật mạnh và bật về sau. Vừa chạm chân tới đất, cả hai lập tức tâng lên không, cố phóng đòn trúng vào những chỗ hiểm của nhau. Mỏ táp, cựa vung ào ào với tốc độ lóa mắt, đánh nhau dữ tợn đến mức George-Gà hiếm khi thấy cặp nào như vậy ngoài trường. Bất thình lình xám chuối của lão người Anh bị trúng đòn, con gà của ông chủ đã đâm sâu một cựa vào một xương cánh của nó, chúng mất thăng bằng ngã xuống, cả hai cùng vùng vẫy để gỡ chiếc cựa bị mắc trong khi vẫn mổ ác liệt vào đầu nhau.

    “Bắt gà (handle)! Ba mươi giây!” Tiếng hô của trọng tài chưa dứt, cả tay người Anh lẫn ông chủ Lea đã nhảy vào; cựa được gỡ ra, hai người vuốt mớ lông bờm rối bù của gà mình cho mượt lại, rồi đặt chúng xuống mức, lần này giữ chúng tại đuôi. “Chuẩn bị… Thả!”.

    Một lần nữa, đôi gà đụng ngang cơ trên không, cả hai cặp cựa cùng tìm đánh một đòn chí tử nhưng đều không đạt trước khi hạ xuống đất. Con của ông chủ nạp tới (dash), cố làm địch thủ mất thăng bằng, nhưng gà Anh nhấp nhử (feint), dạt (sidewise) khôn ngoan, làm đám đông nghẹt thở khi con gà của ông chủ đá toàn lực một cách vô hại. Trước khi nó kịp xoay lại, con gà Anh đã ập tới, chúng điên cuồng quần nhau trên mặt đất, rồi lại đứng lên, lồng lộn, mỏ chọi mỏ, rời ra, đập lẫn nhau bằng những cú quật cánh mạnh bạo trên đôi chân chòi đạp kịch liệt. Chúng lại bật lên không, rồi hạ xuống, đánh nhau dưới đất với một khí thế cuồng nộ mới.

    Một tiếng kêu nổi lên! Con gà Anh đã đánh con kia chảy máu. Một vết sẫm loang loang lộ ra trên ngực con gà của ông chủ. Nhưng nó nện mạnh địch thủ bằng những cú quật cánh cho đến khi con này loạng choạng và nó chồm lên để hạ thủ. Nhưng một lần nữa con gà Anh lại chồm lên, tránh kịp và thoát hiểm. George-Gà chưa từng chứng kiến những phản xạ nhanh quá sức tưởng tượng như thế bao giờ. Nhưng lần này, con gà của ông chủ ra chân đủ mạnh để quất gà Anh ngã ngửa. Nó đâm trúng ngực con này hai lần, làm chảy máu, nhưng gà Anh xoay xở thế nào lại phóc được lên trên không và lao xuống đâm trúng cổ con gà của ông chủ.

    George-Gà đã nín thở theo dõi hai con gà máu me đầm đìa vẫn đá nhau, xoay vòng, đầu cúi thấp, mỗi con đều tìm một sơ hở. Trong một pha quần thảo đột ngột, gà Anh lấn lướt gà ông chủ, quật cánh tới tấp, cựa nó lại lấy thêm nhiều máu, thế rồi kỳ lạ đến mức khó tin, con gà của ông chủ bỗng vọt lên không và khi hạ xuống, phóng một cựa vào trúng tim con gà Anh, nó gục xuống thành một đống, mỏ ộc máu.

    Điều đó xảy ra nhanh đến nỗi khoảng một giây sau tiếng ồn ào mới bùng lên như sấm dậy. Những gã đàn ông mặt đỏ gay la thét, nhảy lên nhảy xuống: “Tawm! Tawm! Ông ta đã thắng!” George-Gà quá đỗi sung sướng, trông thấy họ xúm lại quanh ông chủ, đấm thùm thụp vào lưng ông, chộp lấy tay ông lắc lấy lắc để: “Tawm Lea! Tawm Lea! Tawm Lea!”.

    Chúng ta sắp được tự do, George-Gà tiếp tục nghĩ. Cái thực tế là chẳng mấy nữa ông sẽ nói vậy với gia đình mình, dường như không thể tin được. Ông thoáng thấy lão người Anh bạnh quai hàm ra khiến người ta nghĩ đến một con chó bun (bulldog).

    “Ông Lea” Có lẽ không gì khác có thể khiến đám đông im lặng nhanh chóng đến thế.

    Tay người Anh bước tới; lão dừng lại cách ông chủ độ một thước. Lão nói: “Gà của ông đá cừ lắm. Kể ra con nào cũng có thể thắng. Chúng là cặp đấu hoàn hảo nhất mà tôi từng thấy! Tôi nghe nói ông là loại người thượng võ khả dĩ dám gộp cả tiền được lẫn vốn để cá tiếp một keo khác giữa gà của chúng ta”.

    Ông chủ Lea đứng đó, mặt trắng nhợt đi.

    Trong nhiều giây, tiếng túc và gáy của những con gà chọi nhốt lồng là âm thanh duy nhất mà người ta nghe thấy khi đám đông cố gắng lĩnh hội được cái tiềm năng của đôi gà chọi thi đấu với tám mươi nghìn đô-la tiền cược, ai thắng sẽ vơ tuốt…

    Những cái đầu quay về phía ông chủ Lea. Ông có vẻ ngỡ ngàng phân vân. Trong một phần giây đồng hồ, luồng mắt của ông chạm vào George-Gà đang ráo riết chạy chữa cho con gà bị thương. George-Gà cũng giật thót như những người khác khi nghe thấy giọng của chính mình: “Gà của ông đánh được mọi thứ gì có lông vũ, thưa ông chủ!” Một biển mặt da trắng xoay về phía George.

    “Tôi nghe nói gã da đen trung thành của ông là một trong số những tay luyện gà cự phách nhất, nhưng ở vào địa vị ông, tôi sẽ không quá tin vào ý kiến của hắn. Tôi cũng có những con gà khác rất hay”.

    Những lời đó thốt ra như thể nhà phú hộ Anh coi thất bại vừa rồi của mình khác nào một ván bi (game of marbles), dường như lão đang trêu tức ông chủ Lea vậy.

    Thế rồi ông chủ Lea nói, giọng hết sức trang trọng “Vâng thưa ngài. Như ngài đề nghị, tôi vui lòng để cả món tiền chuyển sang cá vào một trận khác”.

    Nhiều phút chuẩn bị tiếp theo trôi qua gần như mờ mờ ảo ảo đối với George-Gà. Không một tiếng động nào phát ra từ đám đông xung quanh. Trước nay chưa từng có gì như thế. Tất cả bản năng của George-Gà đều đồng tình khi ông chủ Lea đưa ngón tay trỏ chỉ vào cái chuồng nhốt con gà vốn đã được George đặt cho một biệt hiệu từ trước. “Vâng thưa ông, con Diều Hâu” (De Hawk), ông thì thào, biết rất cụ thể rằng con này thiên về miếng chộp và giữ địch thủ bằng mỏ trong khi dùng cựa đâm chém [đá lông]. Đó sẽ là cách trị những con gà được luyện để chuyên nhấp nhử, như trận đấu trước đã khiến người ta đoán đó có thể là đặc điểm trong đàn gà của tay người Anh.

    Bồng con “Diều Hâu” trong tay, ông chủ Lea đi ra chỗ lão người Anh cầm một con chuối bùn (dark gray). Hai con đều nặng sáu pound.

    Khi tiếng “Thả!” vang lên, mang tới chấn động mong đợi, chả hiểu sao thay vì nhảy lên không, cả hai con đều phang nhau bằng những cú đập cánh dữ dội và George-Gà có thể nghe thấy tiếng mỏ con “Diều Hâu” táp sau một cú nắm lông như mong đợi… giữa lúc đang đòn đi đòn lại thì không biết thế nào, gà Anh tung ra một cựa nghiệt. Gà của ông chủ loạng choạng và đầu nó rũ xuống một lúc trước khi ngã gục, miệng há ra trào máu.

    “Ôi lậy Chúa! Ôi lạy Chúa! Ôi lạy Chúa!” George-Gà lao như tên bắn, gạt mọi người sang bên trên đường vào sới tròn. Khóc rống như trẻ con, bế thốc con “Diều hâu” hiển nhiên là bị thương chí tử, ông hút máu đọng từ mỏ nó trong khi nó thoi thóp, hấp hối trên tay ông. Ông chật vật đứng dậy, nỗi đau thống thiết của ông khiến những người đứng gần nhất phải lùi lại trong khi ông loạng choạng đi xuyên đám đông trở về xe, tay ẵm con gà chết.

    Trở lại sới, một nhóm điền chủ đang rối rít vỗ lưng và chúc mừng lão người Anh và ông chủ Jewett. Cả bọn họ đều quay lưng lại cái bóng đơn độc, rũ rượi của ông chủ Lea đang đứng chôn chân, đờ đẫn nhìn xuống những vệt máu trong sới chọi.

    Cuối cùng ngài C. Eric Russell quay lại, bước tới chỗ ông chủ Lea, và ông chủ Lea chậm rãi ngước lên.

    “Ngài nói sao?” ông lẩm bẩm.

    “Thưa ngài, tôi nói rằng chỉ tại hôm nay không phải là ngày đại cát của ngài thôi.”

    Ông chủ Lea cố tạo ra được cái vệt bóng của một nụ cười.

    Ngài C. Eric Russell nói: “Về chuyện thanh toán. Cố nhiên, không ai mang theo ngần ấy tiền trong túi. Tại sao ta không giải quyết vào ngày mai nhỉ? Cho là một lúc nào đó trong buổi chiều đi…” Lão ngừng một lát. “Sau giờ dùng trà, tại nhà ông Jewett”.

    Tê tái, ông chủ Lea gật đầu: “Vâng, thưa ngài”.

    Chặng đường về nhà mất hai tiếng đồng hồ. Cả ông chủ lẫn George-Gà đều không hé răng nói một lời. Đấy là cuộc hành trình dài nhất bằng xe mà George-Gà từng đi, ấy thế mà nó vẫn chưa đủ dài, khi chiếc xe rẽ vào lối đi trong đồn điền…

    Khi ông chủ Lea từ nhà ông chủ Jewett trở về vào lúc sẩm tối ngày hôm sau, ông thấy George-Gà đang trộn thức ăn cho lũ gà con trong lều đựng đồ dự trữ, nơi ông đã qua phần lớn thời gian từ lúc những tiếng la thét, rền rĩ than khóc của Matilda, cuối cùng, đã khiến ông phải trốn khỏi căn nhà gỗ nhỏ của họ.

    “George”, ông chủ nói “ta có điều đau lòng nói với anh”. Ông dừng lại lựa chữ tìm lời. “Ta hồ như không biết nói sao đây. Nhưng anh đã biết đấy, ta chả lấy đâu ra ngót nghét số tiền mà người ta tưởng ta có. Sự thực là, trừ mấy nghìn, hòm hèm toàn bộ sở hữu của ta chỉ gồm có ngôi nhà, mảnh ruộng đất này và một số nô lệ các người.”

    Ông í sắp bán bọn ta, George mang máng cảm thấy thế.

    “Khốn nỗi”, ông chủ nói tiếp, “thậm chí tất cả những thứ ấy cũng chỉ được vào khoảng một nửa số ta nợ lão chó đẻ giời đánh thánh vật ấy. Nhưng lão đã mở cho ta một đường thoát”. Ông chủ lại ngần ngừ. “Anh đã nghe lão bảo đã nghe đồn về anh như thế nào đấy. Và hôm nay lão nói lão đã thấy được tài luyện gà của anh qua hai con đem ra đấu”…

    Ông chủ hít một hơi thật sâu. Còn George thì nín thở. “Ờ, tuồng như lão cần thay một tay luyện gà lão mất ở bên Anh cách đây ít lâu và lão nghĩ mang về một gã nhọ luyện gà kể cũng hay”. Ông chủ không đủ sức nhìn vào đôi mắt nghi ngờ của George và đâm ra cộc lốc hơn. “Để khỏi kéo dài chuyện bầy hầy này, lão bằng lòng lấy tất cả tiền mặt ta có, đợt cầm cố nhà thứ nhất và thứ nhì, và mang anh về bên Anh dùng cho đến khi anh luyện được một người khác. Lão ta bảo là không quá vài năm đâu”.

    Ông chủ cố ép mình nhìn thẳng vào mặt George-Gà “Không thể nào nói được ta đau đớn biết chừng nào về chuyện này, George ạ… Ta không có cách nào khác. Lão ta xử với ta thế, cũng là nương nhẹ. Nếu ta không làm theo thì sẽ mất mọi thứ mà ta đã làm lụng suốt đời để gầy dựng nên”.

    George không sao tìm ra lời để nói. Ông có thể nói gì kia chứ? Dù sao, ông cũng là nô lệ của ông chủ.

    “Bây giờ, ta biết anh cũng khánh kiệt và ta muốn bù đắp lại phần nào cho anh. Cho nên, ngay đây ta hứa với anh là trong khi anh đi vắng, ta sẽ trông nom vợ con anh. Và ngày anh trở về…”.

    Ông chủ Lea ngừng lại, luồn tay vào túi rút ra một tờ giấy gấp, giở nó ra và chìa trước mặt George-Gà.

    “Biết đây là cái gì không? Đêm qua, ta ngồi viết nó đây. Con đang nhìn thẳng vào văn bản hợp pháp xác nhận cho con được tự do, nhỏ ạ! Ta sẽ giữ nó trong két sắt của ta để trao cho con, ngày con trở về!”.

    Nhưng sau khi nhìn trừng trừng một lúc vào những dòng chữ bí ẩn phủ kín tờ giấy trắng vuông vức, George-Gà vẫn tiếp tục vật lộn để chế ngự cơn giận dữ của mình. “Ông chủ ạ”, ông bình tĩnh nói, “trước tui định mua cả nhà tui tự do! Bi giờ tất cả mọi thứ tui có đã đi tong, còn tui thì ông tống khứ tận đâu đâu bên kia biển nước, xa vợ xa con. Sao ông không thể chí ít là thả cho mẹ con nó tự do ngay bi giờ, rồi sau đến tui, khi tui trở về?”.

    Đôi mắt ông chủ Lea him him, “Ta không cần mày dạy ta phải làm gì, nhỏ ạ!” Không phải lỗi tại ta mà mày mất món tiền ấy! Dù sao ta vẫn tự nguyện làm quá nhiều cho mày, ấy cái phiền nhiễu với bọn nhọ là thế! Tốt hơn, là mày hãy cẩn thận cái mồm mầy!” Mặt ông chủ đỏ dần lên. “Nếu mày không ở với ta cả đời ở đây thì ta đã thẳng thừng mà làm và bán quách cái đít nhọ của mày đi cho xong”.

    George nhìn ông, rồi lắc đầu: “Nếu cả đời tui có chút ý nghĩa gì mới ông, thì thưa ông chủ, sao ông lại còn làm nó thêm rối beng lên thế nữa?”

    Mặt ông chủ rắn đanh lại: “Hãy gói ghém bất cứ thứ gì mày định mang theo! Thứ bảy, mày sẽ lên đường sang Anh”.
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/5/19
  9. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    14681749_1596766653966000_5689791227592585588_n.jpg

    Chương 104


    George-Gà đi rồi, vận may của ông đi theo và có lẽ cả nghị lực của ông cũng đi nốt, khí vận của ông chủ Lea cứ thế tiếp tục suy. Mới đầu, ông ra lệnh cho George-Con chuyển sang dành cả thời gian hằng ngày chăm nom gà, song mới đến cuối ngày thứ ba, ông chủ đã thấy các cóng nước ở một số chuồng gà con cạn khô và gã George-Con bầu bĩnh, chậm chạp bèn bị tống cổ với những lời đe dọa ghê gớm. Sau đó, đứa con trai út, Lewis, mười chín tuổi, được chuyển từ làm đồng về nhận công việc đó. Để chuẩn bị cho nhiều cuộc chọi còn lại trong mùa, giờ đây ông chủ Lea buộc lòng phải đích thân làm hầu hết công việc luyện gà và biệt dưỡng trước kỳ thi đấu, vì cho đến nay, Lewis hoàn toàn không biết phải làm thế nào. Cu cậu theo ông chủ đến hàng loạt các cuộc đấu địa phương và mỗi lần vào những ngày ấy, cứ tối đến, gia đình lại tụ tập chờ Lewis về kể lại những gì tệ hại đã xảy ra.

    Gà của ông chủ thua nhiều hơn thắng, bao giờ Lewis cũng nói vậy, và lát sau, lại kể thêm là nó nghe hóng thấy nhiều người nói chuyện công khai rằng ông Tom Lea phải tìm cách vay tiền để đánh cá. “Xem vẻ chả mấy ai muốn nói chuyện mấy ông chủ. Họ chỉ nói qua quít hoặc vẫy nhanh một cái rồi tiếp tục đi cứ dư ông bị mắc dịch í”.

    “Phải, ôn dịch bắt họ đi, bi giờ chả họ biết là ông í nghèo mà”, Matilda nói “Ông í xưa nay vưỡn chỉ là cùng đinh mà thôi” chị Sarah sẵng giọng. Điều trở nên bình thường với xóm nô rằng ông chủ Lea uống rượu bét nhè, hầu như mỗi ngày, giữa các cuộc cãi vã với bà chủ Lea.

    “Cái ông già í chưa bao giờ bẳn tính đến thế!” một đêm, cô Malizy kể vậy với đám cử tọa lầm lì. “Ông í sục sặc trong nhà dư con rắn, hò hét và chửi thề nếu bà chủ chỉ nhìn ông í thôi. Và khi ông đi vắng, cả ngày bà í ở trong nhà kêu la rằng bà í thậm chí không bao giờ muốn nghe nói đến gà nữa!”.

    ………

    Ông chủ Lea trở về vào khoảng giữa chiều, theo sau là một người da trắng khác cưỡi ngựa, và từ vị trí quan sát của mình ở nhà bếp và cửa hiệu rèn, cả bà Malizy và Tom đều ngạc nhiên thấy hai người không xuống ngựa vào đại sảnh nghỉ ngơi uống nước, như trước đây, bao giờ có khách cũng thế. Đằng này, hai con ngựa vẫn tiếp tục phi nước kiệu xuôi con đường sau nhà, hướng về phía khu gà chọi. Không đầy nửa giờ sau, Tom và bà Malizy thấy người khách phóng nhanh trở lại một mình cặp ở nách một con mái chọi sợ hãi kêu cục cục và Tom đứng ở ngoài, nên có thể nhìn thấy khá gần vẻ giận dữ của người đó khi y phi ngựa qua.

    Mãi đến cuộc họp mặt thường lệ của xóm nô đêm hôm ấy, Lewis mới thuật lại những gì thực sự đã xảy ra. “Khi con nghe thấy tiếng ngựa đến”, nó nói, “con cốt sao chắc chắn là ông chủ đã trông thấy mình đang làm việc, rồi mới lẩn ra sau mấy bụi cây, từ chỗ í con biết là có thể nhìn và nghe rõ mọi chuyện”.

    “Thế, sau khi mặc cả thật găng một hồi, họ đi đến ngã giá một trăm đô-la con gà mái chọi đang ấp một lứa trứng í. Rồi con thấy người kia xỉa tền ra đếm, rồi ông chủ đếm lại trước khi bỏ vào túi. Ngay sau đấy bắt đầu một sự hiểu nhầm, người kia tưởng ông chủ biểu dững quả trứng con mái í đang ấp cũng đi kèm luôn vào món hàng í. Thế là ông chủ bắt đầu nguyền rủa dư điên! Ông chạy tới túm lấy con gà nhấc lên và lấy chân giậm nát bét ổ trứng thành một mớ bèo nhèo! Hai người xít nữa đánh nhau, thì bất thình lình người kia giật lấy con gà và nhẩy lên ngựa, miệng hét nếu ông chủ không già khụ dư thế, thì lão ta đã choảng vỡ đầu rồi!”.

    ………

    Gần đây, Tom đã thầm suy luận rằng tổn thất vừa rồi của ông chủ trong chọi gà hẳn là còn lớn hơn ông bộc lộ. Tom đã theo dõi sát ông chủ Lea mỗi ngày một thêm căng thẳng, phờ phạc và già nua, sau mỗi chai whiskey cạn đến đáy. Nhưng Tom biết bằng chứng đáng lo nhất về một cái gì bất ổn sâu sắc là theo lời Lewis, đến nay, ông chủ đã bán đi ít nhất là nửa số gà của mình, mà các dòng gà (bloodlines) trong đó cũng phải mất ít ra là nửa thế kỷ lai tạo (breeding).

    ………

    Chương 109

    ………

    Ăn tối xong, đêm xuống, gia đình vui sướng xúm quanh George khi ông đi vào câu chuyện về gần năm năm ở trên đất Anh.

    “Nói thật mấy các con, thiết tưởng bố phải mất một năm nữa mới kể hết những gì bố đã thấy, đã làm ở bờ biển bên kia! Lạy chúa!”. Nhưng bây giờ, ít ra ông cũng phác cho họ biết mấy nét nổi bật về sự giàu sang phú quý và uy tín xã hội của ngài C. Eric Russell, về đàn gà thuần dòng (purebred lineage) lâu đời và bách chiến bách thắng của ngài, và về chuyện bản thân ông, với tư cách là một chuyên gia luyện gà người da đen từ Mỹ sang, đã tỏ ra hấp dẫn như thế nào đối với những người đam mê chọi gà ở nước Anh, tại đó các phu nhân đài các thường dạo chơi, dắt theo những thằng bé người Phi mặc đồ nhung, lụa, bằng dây xích vàng thắt quanh cổ chúng.

    “Bố không nói dối đâu, bố mừng là đã trải mọi sự. Dưng mà chúa chứng giám là bố nhớ mọi người ghê gớm”.

    “Rành là tui thấy chả có vẻ thế tí nào - hai năm mà kéo ra thành hơn bốn năm!” Matilda nói, giọng gay gắt.

    “Bà già chả thay đổi tí nào, phải không nhỉ?” George-Gà nhận xét với các con đang buồn cười.

    “Hừm! Ai già?” Matilda quặc lại. “Đầu ông phô bạc nhều hơn đầu tui thì có!”.

    Ông cả cười vỗ vỗ vào vai Matilda trong khi bà giả vờ làm ra vẻ rất bất bình. “Đâu phải tui không muốn trở về! Qua hai năm là tôi bắt đầu nhắc ngài Russell ngay. Dưng mà sau một thời gian, một hôm ông í đến bỉu tui đang luyện gà của ông í tốt thế, cũng như rèn cặp gã thanh niên da trắng giúp việc tui, cho nên ông í quyết định gởi thêm một món tiền cho ông chủ Lea, bỉu là ông í cần tui một năm nữa - và tui gần dư phát điên lên được! Cơ mà tui làm thế nào đây? Tui đã làm hết sức mình - ông í phải viết vào thư dặn ông chủ Lea phải bảo đảm nói cho bà mấy các con biết chuyện gì đã xảy ra...”

    “Ông í chả nói mấy bầy tui một lời nào sất” Matilda kêu lên.

    “Mẹ biết tại sao không? Hồi í, ông í đã bán chúng ta đi rồi còn gì”.

    “Rành là phải! Vì thế mà chúng ta không nghe tin”.

    “Ừ hứ! Ừ hứ! Thấy chưa? Không phải tại tui nhá!” Giọng George-Gà có vẻ khoan khoái vì được biện minh.

    Sau sự thất vọng cay đắng ấy, ông đã moi được ngài Russell phải hứa rằng đấy là năm cuối cùng. “Rồi tui tiếp tục dấn tới, giúp cho gà của ông í thắng một mùa lớn chưa từng thấy - chí ít cũng là theo lời ông í nói mấy tui. Rồi cuối cùng ông í biểu ông í cảm thấy tui đã dạy gã thanh niên da trắng đủ sức thay thế tui và tui sắp có thể để chỗ nầy cứ thế tiếp tục, tui sướng ơi là sướng!”.

    “Xin nói mấy tất cả một đều: Chả có mấy nhọ được cả hai xe song mã chở đầy dững bạn hữu người Anh đi tiễn, dư họ đã đưa chân tui đến Southampton đâu. Đấy là một thành phố to tướng bên cạnh bờ biển với không biết cơ man nào là tầu ra tầu vào. Ngài Russell đã thu xếp cho tui đi khoang hạng bét (steerage) trên cái tầu vượt đại dương.

    “Lạy chúa! Tui chưa từng sợ dư thế bao giờ! Ra khơi chưa bao xa, tầu đã bắt đầu chòng chành, chồm lên chồm xuống dư con ngựa hóa dại. Nói gì đến chuyện cầu nguyện!” - ông lờ như không để ý đến cái “hừm!”của Matilda - “tuồng dư cả đại dương đang lên cơn điên, muốn xé bọn tui ra từng mảnh vậy! Dưng mà cuối cùng biển tàm tạm lặng đi và thậm chí là êm ả tĩnh mạc khi bọn tui đến New York, ở đấy mọi người đều xuống khỏi tầu...”

    ………
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/10/16
    xaluanchien thích bài này.
  10. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Ghi chú

    *Đọc bản dịch tại đây: http://vietmessenger.com/books/?title=coire&page=1

    *Đọc nguyên bản tại đây: https://1drv.ms/b/s!AiYCoHR6hcXkgWwaC1y98lzDmGpJ

    *Một số cột mốc quan trọng: Roots: The Saga of an American Family, 1976. Bản dịch của Dương Tường: Cội rễ, 1985. Phim truyền hình (Roots miniseries, 1977). Phim truyền hình (Roots miniseries, 2016).

    *Về thể thức thi đấu. Các thể loại đá đối đầu, đá luân lưu và đá cáp được Arch Ruport (The Art of Cockfighting, 1949) giải thích như sau:

    Đá đối đầu (main) bao gồm số lượng gà như nhau ở mỗi bên. Bất cứ số lẻ nào từ ba đến hai mươi mốt hay nhiều hơn [tùy số lượng cáp trên thực tế]. Cuộc đấu được sắp đặt từ trước, và các trọng lượng sàn và trần được xác định [tầm trọng lượng]. Bên nào thắng đa số trận sẽ thắng luôn cuộc đối đầu. Các bên phải lập biên bản thỏa thuận (agreement) với các điều khoản (articles) rõ ràng và chi tiết để cuộc đấu được tiến hành trong mọi trường hợp. Các điều sau đây nên được đề cập trong biên bản: 1) Địa điểm và thời gian thi đấu, 2) Tiền độ, 3) Ai là người giữ tiền độ và tiền phạt (forfeit) là bao nhiêu [trường hợp bỏ đá chẳng hạn], 4) Loại cựa (gaff) và luật trường được áp dụng, 5) Ai là trọng tài, 6) Số gà mang theo của mỗi bên [trong tầm trọng lượng quy định], 7) Đâu là trọng lượng sàn và trọng lượng trần, 8) Có buộc phải cáp gà cùng trọng lượng, 9) Được phép chênh mấy ounce khi cáp gà, 10) Cựa và dây cột được phép nặng mấy ounce, 11) Có buộc phải đá toàn bộ số trận cáp được hay phải chọn số lẻ, 12) Phải làm gì nếu số cáp là chẵn, 13) Phải làm gì nếu số cáp là lẻ và có trận hòa, 14) Dẫu trường hợp số 12 hay 13, bên nào thắng trước một nửa số trận cáp sẽ chiến thắng chung cuộc, 15) Ai thắng khi thảy đồng xu được lựa chạng đá trước. Quyền lựa chọn sẽ hoán đổi lần lượt sau đó, 16) Người vừa thua trận có quyền chọn chạng đá trận sau, 17) Khi quyền chọn chạng hoán đổi, nó nên từ trần xuống sàn, hay ngược lại.

    Khi hai bên đến trường gà nơi tổ chức cuộc đấu, họ phải cân đủ số gà như thỏa thuận trong biên bản và ghi vào danh sách. Khi hai bên cân xong, họ cần so sánh danh sách và tiến hành cáp.

    Tất cả những con cùng trọng lượng sẽ được cáp trước, rồi đến tất cả những con chênh lệch trong vòng một ounce [28g]. Nếu biên bản chấp nhận chênh lệch 2 ounce [56.7g], thì những con trong diện này sẽ được cáp tiếp theo.

    Đôi khi, trong việc cáp chạng đá đối đầu, số trận là chẵn. Trong trường hợp này, người cáp có thể cho phép chênh lệch ba ounce [85g], sao cho bên này có lợi một trận thì bên kia cũng có lợi trận khác, nhằm đạt được số cáp lẻ.

    Nếu thỏa thuận nhấn mạnh rằng không bắt buộc phải cáp hai con có cùng trọng lượng, thì nhiều khả năng tất cả gà đem đến giải đều cáp được.

    Quan trọng là điều thứ 13 ở trên phải được thỏa thuận trước khi thi đấu. Nhìn chung, nó nói rằng trong trường hợp có trận hòa, cuộc đá đối đầu sẽ tương tự với số cáp chẵn. Khi ấy, người đạt được nửa số trận thắng đầu tiên sẽ chiến thắng chung cuộc. Chẳng hạn, nếu thỏa thuận đá mười ba trận và té ra một trận hòa, thì ai đạt 6 trận thắng đầu tiên coi như thắng cuộc đá đối đầu.

    Đá luân lưu (tournament) là khi các chạng đá được chỉ định trước, và gà chọi phải đạt tầm trọng lượng cho phép.

    Trong các giải luân lưu lớn, mỗi đội (entry) sẽ lần lượt đụng với những đội còn lại, và tầm trọng lượng được thỏa thuận tương ứng – một [28g] hay hai ounce [56.7g] tùy trường hợp.

    Trong các giải luân lưu nhỏ, tầm trọng lượng được mở rộng đến 4 ounce [113.4g]. Giải luân lưu có thể bao gồm số lượng đội bất kỳ, từ hai đến một chục hay nhiều hơn. Các đội phải hợp tác với người cáp (match-maker) trong nhiều ngày trước khi giải diễn ra để cáp trận và lập bảng điểm (scorecard).

    Chẳng hạn giải luân lưu đá 5 gà và có 8 đội tham gia. Dĩ nhiên, một đội không thể đụng hết số còn lại, vì vậy lịch đá (schedule) được xây dựng với 1 đấu 2, 3 đấu 4, 5 đấu 6, 7 đấu 8 trong vòng 1. Mỗi đội sẽ bắt thăm và sẽ đá theo lịch của mã số tương tứng. Đây là các trận thuộc chạng 4-8 [2.04kg].

    Ở dưới là ví dụ về bảng điểm và lịch đá của giải luân lưu 5-gà, 8-đội, thể hiện mã số và tên đội với đối thủ ở mỗi trận, và cách ghi điểm.

    tournament.jpg

    Từ bảng điểm, sẽ rất dễ nhận thấy đội Brown, mã số 2, gặp đội Stock ở chạng 4-8 [2.04kg], đội Kirk ở chạng 4-12 [2.15kg], đội Black ở chạng 5-0 [2.27kg], đội Madden ở chạng 5-4 [2.38kg], và đội Myers ở chạng 5-8 [2.49kg]. Vậy đội Brown đá đủ 5 trận và bảng điểm ghi nhận anh thắng 3 thua 2. Mỗi đội đều đá theo cùng cách thức như vậy.

    Hai hay nhiều đội có thể đồng hạng tại các vị trí nhất, nhì và ba. Nếu điều này xảy ra, tiền sẽ được chia đều; chẳng hạn nếu hai đội đồng hạng nhất, thì tổng tiền thưởng các vị trí nhất và nhì sẽ được chia đều cho cả hai. Nếu ba đội đồng hạng, thì toàn bộ tiền thưởng sẽ được chia đều cho cả ba.

    [Theo D. Henry Wortham (Modern Tournament And Derby Rules, 1961), thể thức đá luân lưu (tournament) được Sol P. McCall ở Louisiana sáng lập vào năm 1908. Như vậy giải này chưa xuất hiện vào thời của George Gà (tức trước 1865 theo Wikipedia), tác giả Alex Haley đã nhầm lẫn ở điểm này!]

    Đá cáp (hack) là khi nhiều sư kê tập hợp và cáp ngay tại chỗ theo thỏa thuận giữa đôi bên.

    Luật trường cũng tương tự như đá đối đầu, và chênh lệch 2 ounce [56.7g] thường được chấp nhận.

    [Trong sách, từ “hack fight” được dịch là “chọi hạ cấp” và điều này không hẳn sai vì đây là thể thức đá phổ biến nhất, dễ tổ chức nhất và không đòi hỏi nhiều gà mà ai cũng có thể tham gia. Nhưng cũng không hẳn đúng vì cuộc đụng độ đình đám nhất giữa ông chủ Lea và nhà quý tộc Anh Eric Russell là thể thức đá cáp - 5 trận, nhưng đến trận thứ 2 thì ông chủ Lea đã sạt nghiệp rồi nên những trận sau coi như bỏ].

    *Trường gà (fighting area). Địa điểm diễn ra các độ gà. Theo Art Ruport, trường gà phải ở nơi xa khu dân cư và có chỗ đậu xe. Cấu trúc phải thoáng mát, có khu vực dành cho sư kê ốp và khởi động gà, khu vực dành cho khán giả, quầy phục vụ giải khát và thức ăn nhẹ, phòng y tế và nhà vệ sinh. Trung tâm của trường gà là sới (cockpit), hình tròn, đường kính tối thiểu 20’ [6m], thấp hơn sàn khoảng 2’ [0.6m], vách sới ngả ra ngoài để khán giả dễ quan sát. Vách phải được gia cố bằng vật liệu trơn, cứng và không có kẽ để gà khỏi mắc chân vào. Nền sới được chuẩn bị cẩn thận bằng một lớp đất sét nện dày độ 3 hay 4” [10cm], bên trên là lớp vỏ cây (tanbark). Vỏ cây phải được trải đều, phun ẩm, lèn chặt, và sâu khoảng 2” [5cm] vào lớp đất sét. Vỏ cây là vật liệu tốt nhất nhưng nếu không tìm ra thì có thể dùng đất mùn (humus) rừng thân mộc. Đây là hỗn hợp của lá, cành cây mục, đất và phân, xác động vật thối rữa. Kế nữa là đất sét nhẹ trộn với mùn cưa. Một số trường gà tại New York sử dụng thảm, người ta xếp chồng vài lớp dày, vuốt phẳng bề mặt và xử lý các góc để không cản trở chuyển động của gà.

    Ở các giải nhỏ hoặc khu vực đá cáp địa phương, sới được thiết kế đơn giản bằng vách gỗ, đường kính khoảng 14’ [4m] và cao khoảng 2’ [0.6m]. Sới có thể hình tròn, bát giác, lục giác hay thậm chí hình vuông; nhưng ở trường hợp sau cùng, các góc cần được chèn bằng vật liệu cứng, nhẵn. Cách phần vách sới được nối lại với nhau và có thể tháo rời sau khi sử dụng.

    Theo D. Henry Wortham (Modern Tournament and Derby Rules, 1961), mức (core, starting line) hay vạch xuất phát được vẽ cách nhau 8’ [2.4m]. Mức có thể dịch vào, mỗi lần 22” [56cm], tùy diễn tiến trận đấu theo luật trường, cho đến khi hai con đâu mỏ (beak-to-beak), gọi là vào chữ công.

    Về nhân sự, chúng ta thấy có trọng tài (referee)quản trường (judge), người điều hành các hoạt động ở trường đấu. Trọng tài không được phép cá cược. Luật trường được đăng công khai để đảm bảo mọi người đều thông suốt trước khi thi đấu.

    *Sư kê (cocker). Là người biệt dưỡng (condition), lắp cựa (heel) và thả gà (handle) đá trường tuy ở mỗi lãnh vực đều có các chuyên gia riêng. Nhà lai tạo (breeder) tự đá gà của mình cũng được gọi là sư kê.

    Mặc dù người Việt có một truyền thống chọi gà lâu đời, thuật ngữ “sư kê” tức người chọi gà chỉ tồn tại thông qua truyền khẩu trong làng gà. Nó xuất hiện trong bài “Thú Chọi Gà” của cụ Vương Hồng Sển xuất bản năm 1961 và nay được các trang mạng sử dụng rộng rãi.

    *Nhà thể thao (sportsman). Chọi gà là tổng hòa của các yếu tố thú chơi – cờ bạc – và thể thao mà ranh giới giữa chúng dường như rất mong manh và khó tách bạch. Ở Anh và Mỹ trước đây, xã hội vẫn coi chọi gà là một trong những trò thể thao phổ biến nhất, và sư kê cũng là nhà thể thao. Bởi vậy, khi thấy mức độ chịu chơi của ông chủ Lea, vị quý tộc người Anh mới thốt lên “Một nhà thể thao đích thực!”. Nhưng nếu một người lậm sâu vào khía cạnh đỏ đen, thì anh ta sẽ trở thành tay cờ bạc và có thể mất hết mọi thứ. Nhân vật chính trong bộ phim Sabungero (2009) của điện ảnh Philippines bị rơi vào trường hợp này và anh quyết định trở lại con đường của một sư kê, tức tập trung vào khía cạnh chuyên môn của trò chọi gà và tham dự giải World Slasher Cup.

    *Về màu sắc gà. Chú thích các màu gà trong bài như sau: red = điều, tía; blue = xám; gray = chuối; dark gray = chuối bùn tức mã trắng có lẫn sắc đen; silvery blue = xám chuối; speckled/spangle = bông, nổ; snow-white = nhạn; coal-black = ô hay còn gọi là “ô ướt”; dark buff = vàng sẫm, có lẫn sắc đen.

    *Trống mồi (catch cock). Không dùng đá trường, mà vào việc huấn luyện. Trống mồi thường được ôm để nhử trống đá trường, giúp nó tập bay và đá trên không.

    *Trống tơ (stag). Gà trên dưới một năm tuổi. Trống tơ lớn (bull stag). Gà từ một năm rưỡi đến dưới hai tuổi. Trống chiến (cock). Gà trên hai năm tuổi.

    *Thảo dược (herb). Có mấy loại thảo dược mà lão Mingo cho vào thức ăn biệt dưỡng của gà chọi. Chua me (wood sorrel): tên khoa học Oxalis acetosella; ở Việt Nam có bốn loài thuộc họ chua me Oxalidaceae, loài thường gặp nhất là chua me đất hoa vàng Oxalis corniculata; vị chua. Rau má lông (ground-ivy): tên khoa học Glechoma hederacea; cây này cũng phân bố tại Việt Nam, ở vài tỉnh phía bắc; tuy xuất hiện trong danh sách cây độc với gà, nhưng mặt khác, con người vẫn sử dụng nó làm thảo dược và đó là lý do có người không diệt nó trên sân gà của mình; vị hơi đắng. Cam thảo (licorice): vị ngọt, the. Cả ba cây này đều có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, có lẽ cũng kích thích tiêu hóa, giúp gà ngon miệng.

    *Gà Chọi Anh (Old English Game). Vào năm 1849, nghị viện Anh ban hành điều luật cấm chọi gà. Không phải với lý do bảo vệ động vật mà vì họ nghĩ rằng trò chọi gà thu hút đám lưu manh, làm mất trật tự xã hội. Người ta bắt đầu chuyển sang cản gà để tham dự triển lãm thuần túy. Trong thời gian này, họ lai gà chọi Anh (English Game) với gà Malay để cho ra giống gà mới, với mục đích làm cảnh, gọi là Modern English Game. Để phân biệt, giống gà chọi Anh truyền thống được thêm chữ “old” đằng trước thành ra Old English Game. Theo nghiên cứu của tiến sĩ Barry Peachey trong cuốn “The Cockfighter” năm 1992, thêm nhiều điều luật cấm cản được bổ sung ở Anh vào thế kỷ trước nhưng hiện tượng chọi gà vẫn diễn ra một cách lén lút cho đến tận ngày nay. Dẫu vậy, danh tiếng và chất lượng của gà chọi Anh dường như đã sút giảm rất nhiều, điển hình là thị trường Philippines nơi người ta vẫn nhập gà chọi Mỹ về làm giống nhưng hầu như không đả động gì đến gà chọi Anh. Hầu hết gà chọi Anh được bày bán công khai trên thị trường là gà cảnh, chẳng thể đá đấm gì được, đến mức các từ “Game”, “Gamefowl”, “Gamecock” mất đi ý nghĩa ban đầu của chúng, thậm chí một số người chuyển sang sử dụng từ “Battlecock” để khẳng định giống gà chọi đá trường đích thực.

    *Tiền độ (main pot, main purse, main stake). Các trận đấu được tổ chức tại trường gà, nơi chủ trường sẽ thu phí tham dự (admission fee). McIntyre (1906) nói rằng hoặc mỗi bên trả một nửa phí tham dự cho chủ trường, hoặc bên thắng sẽ trả, tùy điều khoản trong thỏa thuận. Nhiều khả năng, phí tham dự được trả dưới dạng “tiền xâu” từ 5-10% tiền độ hay “tiền trong sổ”. Sư kê đá càng lớn thì tiền xâu càng lớn nên lẽ tự nhiên, họ muốn hạn chế tiền độ mà dồn vào khoản cáp ngoài (side bet), còn gọi là “đá ngoài sổ”. Về phía chủ trường, họ sẽ quy định số tiền độ tối thiểu và các sư kê phải đá trên mức đó.

    *Cáp ngoài (side bet). Khoản cá cược ngoài sổ giữa đôi bên. Khoản thu từ đây không phải chịu tiền xâu cho chủ trường, ngược lại họ cũng không chịu trách nhiệm nếu rắc rối phát sinh (như chạy làng). Đá hàng xáo (side betting) là một dạng cáp ngoài, diễn ra giữa đám khán giả ăn theo, còn gọi là dân hàng xáo, nên thường phóng, bắt ầm ĩ. Ở trường gà có tổ chức, dân hàng xáo có thể cá cược thông qua biện trường để tránh rủi ro (như chạy làng), ngược lại người thắng phải trả tiền xâu khoảng 5%.

    *Thả gà (handling). Hoạt động điều khiển gà trong sới bao gồm hai động tác cơ bản: thả (pit) và bắt (handle), kèm hoạt động cấp cứu, gọi là sửa (nursing). Người thực hiện gọi là nài gà (handler/pitter/setter). Vì tính chất vũ khí và luật trường, các độ gà đôi khi rất dằng dai nên kỹ thuật thả và sửa gà góp phần quan trọng vào kết quả trận đấu. Cứ như sách thì ông chủ Tom Lea là một nài gà giỏi.

    *Trận (pitting). “Gà của ông Grayson thắng - một phút mười giây trong trận (pitting) thứ hai!”. Tác giả Alex Haley sử dụng từ “pitting” theo nghĩa “lần thả gà” tức trận đấu. Trong khi các sư kê đích thực dùng “pitting” với nghĩa là “lượt thả”. Theo luật thì gà còn đá cho đến khi bị dính cựa (hang/fast) tức cựa con này đâm và bị kẹt trên mình con kia, không đá được nữa, phải bắt ra thả lại. Mỗi lần thả như vậy được tính là một lượt và độ nhanh-chậm của một trận gà thường được tính theo lượt thả.

    *Cắn mổ (bill). Màn dạo đầu trước khi thả gà, khi hai con được đưa lại gần cho cắn, mổ qua lại, kích thích tính hung hãn. Theo Dingwall (Handling & Nursing The Gamecock, 1928), có trường hợp buôi thuốc lên lông gà mình để ngầm hại gà địch khi cắn mổ, nhưng hồi đó còn hiếm. Xin dẫn lời anh Gà Củ Chi “Bên mình vì sợ gà đối thủ bôi thuốc vào mồng, sau khi gà mình cắn sẽ bị ngơ, không đá được nên đa số đã bỏ thủ tục này”.

    *Biệt dưỡng (conditioning). Quy trình nuôi dưỡng và huấn luyện (training) để gà đạt phong độ cao nhất ngoài trường đấu. Công đoạn này thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần tùy mỗi sư kê. Người thực hiện công đoạn này được gọi là tay biệt dưỡng (conditioner/keeper). Tay luyện gà (trainer) theo nghĩa hẹp là người thực hiện các bài tập cho gà nhưng cũng có thể là tay biệt dưỡng.

    *Bàn tập (work bench). Đây là lối luyện gà đặc trưng của các sư kê Mỹ. Có nhiều bài tập (exercises) trên bàn, chẳng hạn như hất (flirt), bật (flip), thảy (toss), chạy (run), lật (turn over), vuốt (rub) .v.v.

    *Thư dãn (limber). Là một phần thuộc quá trình khởi động, theo đó gà được đưa ra khỏi lồng vận chuyển hoặc lồng ốp, thả vào bội để đi lại cho dãn gân cốt. Tại trường đấu, thư dãn thường được kết hợp với xoa bóp và quan sát phân để theo dõi quá trình tới độ (on point).

    *Lai tạo (breeding). Là cản gà một cách có phương pháp kết hợp với tuyển chọn (selection)thanh lọc (cull). Gà bị loại trong quá trình này, tức không dùng vào thi đấu và lai tạo, được gọi là gà loại (cull bird) hay gà hạng hai.

    *Dòng gà (bloodline). Là bầy gà có chung những tính trạng mong muốn, mà ở đây là các đặc điểm chiến đấu như gan lỳ (game), đâm (cut), lực (power) và tốc độ (speed).

    *Lai thuần (purebred). Là củng cố các tính trạng mong muốn, khiến các gien quy định những tính trạng này tồn tại dưới dạng đồng hợp tử; trên thực tế, điều này gần như đồng nghĩa với việc lai cận huyết (inbreeding).

    *Thả bãi (range walk). Còn gọi là thả trại (farm walk), tức chăn thả trên bãi rộng. Bãi thả của ông chủ Lea không giới hạn! Tuy nhiên một số trại có thể quây lại để dễ quản lý và ngăn ngừa động vật săn mồi. Sư kê Rey Bajenting (Philippines) tính cho mỗi đầu gà độ 10 m2. Những vùng có diện tích hạn hẹp, chẳng hạn như miền bắc nước Mỹ, các sư kê chăn thả trong lồng hay chuồng, gọi là thả lồng (pen walk/coop walk/yard walk).

    *Đá lông (mouth hold). “Thiên về miếng chộp và giữ địch thủ bằng mỏ trong khi dùng cựa đâm chém. Đó sẽ là cách trị những con gà được luyện để chuyên nhấp nhử”. Đây là mô tả về con “Diều Hâu” (De Hawk) cũng là gà đá lông.

    *Cựa (gaff). Loại cựa thép tiết diện tròn. Ở các bang miền Nam, người ta sử dụng cựa dài. Trong khi ở các bang miền Bắc, người ta sử dụng cựa ngắn 1¼ in.
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/5/19
    xaluanchien thích bài này.
  11. xaluanchien

    xaluanchien New Member

    Tranh thủ thời gian rảnh đọc truyện này trong 2 ngày mới xong. Tuy chỉ là vài chương thôi nhưng vẫn làm cho người đọc hiểu được phần nào của cáu chuyện, đọc xong một lúc lâu rồi mạ sao vẫn thấy trong lòng nghèn nghẹn. Tks người anh em đã đăng lên đây một câu chuyện hay đáng để suy ngẫm...
     
    vnreddevil thích bài này.
  12. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Roots Miniseries 2016 (4 phần) làm lại từ Roots Miniseries 1977.

    Phần 3 nói về cuộc đời George-Gà từ khi mới vô nghề cho đến khi ông chủ thua độ phải lưu lạc sang Anh.

    roots.jpg
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/11/18
    xaluanchien thích bài này.
  13. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Theo cuốn The game fowl: its origin and history (R. A. McIntyre, 1906), nhiều người da đen tham gia vào trò chọi gà ở miền Nam dưới danh nghĩa tay biệt dưỡng và nhà lai tạo. Tác giả ghi nhận hai sư kê da đen nổi bật vào thời đó, vốn sinh ra là dân nô lệ (tức trước 1865 theo Wikipedia):

    Các tay biệt dưỡng da đen – Trong số những điều đáng chú ý ở trò chọi gà đương đại là hai người da đen – “Bill” Snell và Lucius Tolbert. Chúng ta, những quý ông miền Nam, vô cùng hâm mộ mọi bộ môn thể thao, cũng như hết sức quý trọng những cá nhân giỏi giang, tự nhiên giao phó nhiệm vụ và công việc chăm gà đá trường cho bất cứ ai vốn có thể chứng tỏ sự hữu ích trong nghề. Người da đen luôn làm quản gia (majordomo) cho dân miền Nam, và một quý ông miền Nam bình thường rất dễ bị rơi vào cám dỗ rằng ông hoàn toàn mong đợi việc phó mặc mọi thứ cần đến sự nỗ lực cho “người hầu”, thậm chí kể cả việc đi vệ sinh. Do vậy cơ hội để người da màu trở thành tay biệt dưỡng là bao la ở các bang miền Nam. Nhưng chỉ có hai người này vươn lên vượt xa mức trung bình để nổi bật vào thời của mình. Họ từng biệt dưỡng một số cuộc đối đầu độc lập một cách thành công, và được những người ở đẳng cấp hàng đầu xem là “cánh tay đắc lực” trong nghề. Hai người là hai thái cực. Bill là chiến hữu to mập; Lucius mảnh mai hơn. Cả hai biết rõ vị trí của mình, cực kỳ lịch lãm, và chính xác là ý tưởng của người miền Nam về một tay biệt dưỡng (feeder). Do đó, cả Lucius lẫn Bill đều rất được ưa chuộng trong bộ môn đá cựa dài. Bill tuyên bố mình là tay biệt dưỡng khắt khe. Ông nói mình phải có năm chục trống để tuyển chọn nếu đem đá hai mươi con. Ông nói “Thưa ông chủ, tôi là một nhọ khó khăn với gà; tôi thịt chúng nếu chúng không kham nổi bài tập tôi giao cho”. Bill thường gọi “gà trống” (cock) là “rooster”, ông hiếm khi dùng từ nào khác, và tinh thần của ông ở kê phòng (cockhouse) cũng như ngoài sới (pit), là niềm vui bất tận, nhất là với những ai sinh trưởng ở miền Nam và am hiểu tính cách của người da đen. Bill cũng là nhà lai tạo gà chọi thành công. Ông đặt nhiều tin tưởng vào những con “Gilder” xưa – một dòng gà Irish được nhập khẩu nhiều năm trước và gần đây trở nên phổ biến nhờ nỗ lực của các sư kê miền Nam và những người vốn có gà pha nhiều máu dòng Irish Gilder xưa. Mr. Hillsman ở Virginia sử dụng một số Snell Gilder trong cuộc đá đối đầu với J. W. Goodhart và W. E. Boteler ở Maryland, mà ông thắng ở trận lẻ trong tổng cộng mười ba trận [ai đạt bảy trận thắng trước sẽ thắng chung cuộc], vào ngày 25 tháng 2 năm 1904. Đó là cuộc đối đầu khốc liệt – hiếm khi có những trống khó nhằn đến vậy đối đầu với gà Gilder vào thời gian gần đây và không gì ngoài những chiến kê ở đẳng cấp hàng đầu mới có thể thắng nổi Mr. Goodhart, người có thành tích thắng mười một cuộc đối đầu liên tục và đang đá trong tâm thế đó của mình. A. P. O'Connor biệt dưỡng cho cánh Virginia, và anh có bầy Gilders ở tình trạng hoàn hảo.

    Lucius Tolbert rất được mến chuộng ở Charleston, và những khi không ở đó, ông bận rộn biệt dưỡng hoặc hỗ trợ biệt dưỡng cho các cuộc đá đối đầu (main) ở Georgia. Luôn có việc cho một tay biệt dưỡng giỏi theo Luật Turner [luật chọi gà miền Nam] ở South Carolina và Georgia, vào mùa chọi gà. Lucius cũng thường được thuê mướn ở Texas nơi mà trò chọi gà phát triển nhanh chóng nhờ nỗ lực của những người như J. A. Maddigan, vốn thành công đáng kể nhờ “Texas Rangers”, một dòng gà điều sẫm (dark and brown-red) có lẽ ngang cơ với bất kỳ dòng nào trong bộ môn cựa dài. Trường gà San Antonio thường được mở và tham gia bởi các tay nhà giàu Mexico, những kẻ đặt đến cả chục ngàn đô-la vào một trận gà với sự thản nhiên kiên định như thể tung một đồng xu để chọn hình (head) hoặc lúa (tail). Tại một trường gà nổi tiếng ở Texas, Maddigan đả bại F. H. Carr, nhà lai tạo gà chọi lớn nhất ở Khu Tự Trị Da Đỏ (Indian Territory) vào cuối tháng hai với sự trợ giúp của Lucius Tolbert như là cánh tay mặt đối đầu với W. B. Cavanaugh, người nổi bật như là tay biệt dưỡng cựa dài giỏi nhất ở bang Texas.

    Cả Lucius lẫn Bill đều đóng vai trò quan trọng trong lễ hội chọi gà lớn nhất gần đây, ở Birmingham, Alabama, vào các ngày 15, 16, 17, 18 và 19, tháng 12, năm 1903. Bill biệt dưỡng cho S. D. Harris, người thắng giải luân lưu (tournament), Lucius biệt dưỡng cho Burke và Cavanaugh, người thắng phần lớn các trận mà họ tham gia. Đây là một sự kiện độc nhất. Mục đích là tập hợp tất cả những sư kê giỏi nhất ở miền Nam trong một giải đá luân lưu năm-ngày. Mỗi đội đóng 100$ và người thắng nhiều trận nhất trong giải sẽ ẵm trọn số tiền. Có cả thảy bảy đội: C. L. và A. L. Love, Burnsville, Alabama; Burke và Cavanaugh, Springfield, Missouri, và Paris, Texas; Binford và Tanner, Athens, Alabama; Bud Brown, Warrior, Alabama; Faulk và Hayes, Dothan, Alabama, và Natchez, Mississippi; S. D. Harris, Birmingham. S. S. Granger ở Madison, Mississippi, cũng tham gia nhưng phải nộp tiền phạt. Theo dự đoán, có khoảng một ngàn người dự khán. Lúc nào cũng có ba hay bốn trận đang diễn ra, dẫu đá đối đầu hay đá cáp, với khoảng hai trăm chiến kê tham dự trong năm ngày. Bill Snell và Lucius Tolbert vốn là dân nô lệ và là những tay dày dạn ở tuổi trung niên.
     
    xaluanchien thích bài này.
  14. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Theo cuốn “MODERN TOURNAMENT AND DERBY RULES” của D. Henry Wortham (bản chỉnh sửa 1961), thể thức đá giải luân lưu (tournament) được Sol P. McCall ở Louisiana sáng lập vào năm 1908. Như vậy giải này chưa xuất hiện vào thời của George Gà (tức trước 1865 theo Wikipedia), tác giả Alex Haley đã nhầm lẫn ở điểm này!
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/7/17

Chia sẻ trang này