Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Nuôi và lai tạo cá hải hồ đầu đỏ Geophagus steindachneri

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 7/5/17.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Nuôi và lai tạo cá hải hồ đầu đỏ, Geophagus steindachneri
    Lee Newman - http://www.cichlid-forum.com/articles/geo_steindachneri.php

    Cá hải hồ đầu đỏ (Red Hump Eartheater) có một lịch sử đặt tên thú vị với bằng chứng là hàng loạt tên mà loài được bày bán trong thú chơi. Mặc dù việc nhầm lẫn xung quanh tên gọi của nó đã được giải quyết (Loiselle, 1974), Geophagus steindachneri có thể vẫn được bày bán như là Geophagus hondaeGeophagus pellegrini. Trong khi Geophagus hondae là tên phụ đồng nghĩa của Geophagus steindachneri, thì Geophagus pellegrini lại là một loài khác (Leibel, 1993), dẫu không phổ biến trong thú chơi tại thời điểm hiện tại.

    [​IMG]
    Cá đực non Geophagus steindachneri.

    Geophagus steindachneri xuất xứ từ [các sông] Rio Magdalena, Rio Sinu, và các nhánh Rio Cauca ở Colombia, và các dòng chảy thuộc lưu vực Maracaibo ở Venezuela. Loài này có lưỡng hình giới tính; với cá đực đạt đến 13.5 cm chiều dài chuẩn (SL), trông hấp dẫn với cái đầu gù (nuchal hump), và sặc sỡ hơn nhiều so với cá cái, vốn chỉ lớn đến 10 cm SL.

    Trong giai đoạn bốn năm mà thông tin về Geophagus steindachneri được thu thập, một số quan sát thú vị liên quan đến việc duy trì và sinh sản được tiến hành. Mục đích của bài viết này là (1) cung cấp cho người chơi một kế hoạch lâu dài để nuôi dưỡng thành công loài này; và (2) mô tả cơ chế sinh sản và chăm sóc cá bột.

    Phân họ Geophagines nói chung – và cá hải hồ đầu đỏ cũng không là ngoại lệ – gặp vấn đề sức khỏe trong hồ với chu trình ni-tơ được quản lý kém, tình huống thêm trầm trọng bởi tập quán “ăn đất” (eartheater) với việc liên tục sục vào đáy nền để tìm kiếm thức ăn, và theo đó giải phóng chất thải từ đáy nền vào nước. Do vậy việc lựa chọn hệ thống lọc phải là cân nhắc hàng đầu trong việc thiết kế và duy trì hồ nuôi cá đầu đỏ. Mặc dù có nhiều hệ thống vốn hoạt động tốt, bất cứ cái nào được chọn đều phải đạt các tiêu chí sau: vệ sinh dễ (và thường xuyên), bộ tiền lọc (prefilter) cơ học hiệu quả; bộ lọc sinh học được bảo vệ khỏi nghẽn; và việc thay nước một phần định kỳ cũng như môi trường lọc hóa học có xu hướng tắc nghẽn từ lâu trước khi toàn bộ hệ thống ngưng trệ. Cá đầu đỏ chịu đựng tốt với nhiệt độ, PH và độ cứng và sẽ ổn miễn thông số không quá cực đoan. Chúng dễ nuôi, háo hức ăn đủ loại thức ăn cá cảnh thông thường, nhất là trùng đỏ đông lạnh và trùn đất băm nhỏ.

    Một trong những khía cạnh thách thức hơn trong việc nuôi cá đầu đỏ liên quan đến chế độ sinh sản của chúng. Geophagus steindachneri là loài đa thê (polygamous) theo đó cá đực duy trì một hậu cung (harem) gồm nhiều cá cái ấp miệng. Hậu quả là, cá đực có xu hướng hung hăng với cả đồng loại lẫn biệt loại, trong khi cá cái thường không có gì khác biệt trừ khi ấp miệng hay chăm sóc cá bột. Dựa vào những đặc điểm hành vi này, việc duy trì nhiều hồ nuôi cá đầu đỏ là điều hết sức đơn giản. Một hồ dùng để nuôi cá đực được chọn để lai tạo, nuôi riêng hay theo cộng đồng được bố trí để các loài có khả năng lẩn tránh sự hung dữ của nó. Theo kinh nghiệm của tôi, một cá đực nuôi trong hồ 180 gal trang trí sơ sài đã ức hiếp nhóm cá G. surinamensisSatanoperca daemon. Mặt khác, cá đầu đỏ lại sợ hầu hết các loài thuộc phân họ Cichlasomines; do đó, sự cân bằng khéo léo về hành vi là mục đích.

    [​IMG]
    Cá cái Geophagus steindachneri với cá bột.

    Hồ thứ hai được bố trí sao cho cá ở cả hai hồ có thể nhìn thấy nhau – được dùng để nuôi và dưỡng cá cái. Nên có từ hai đến ba cá cái để phân tán sự quan tâm thường trực của cá đực trong tương tác sinh sản. Một lần nữa, điều này có thể được thực hiện bằng cách nuôi cá cái riêng hay trong hồ cộng đồng với những loài không hung dữ. Trộn cá cái trong hồ 30 gal với cá phượng hoàng Microgeophagus ramirezi trưởng thành và Satanoperca leucosticta non là một kết hợp vốn ổn với tôi, nhưng có nhiều lựa chọn khác. Nhiều yếu tố, bao gồm kích thước và hình dạng của hồ nuôi, bố cục, và sự hiện diện của loài khác, đóng vai trò đáng kể trong việc phát triển một môi trường nuôi dưỡng thành công.

    Như đã nói trước đây, việc dẫn dụ cá đầu đỏ sinh sản phát sinh một số thách thức, giả sử cả hai giới đều hiện diện. Tuy nhiên, khó khăn có thể xuất hiện, trong (1) việc xác định khi nào cá cái sẵn sàng sinh sản và (2) quyết định một kế hoạch quản lý cá cái mới đẻ gần đây. Nếu chiến thuật duy trì mô tả ở trên được áp dụng, thì vấn đề đầu tiên có thể được hạn chế. Giả sử tầm nhìn đầy đủ, cá đực có thể de cá cái từ hồ bên cạnh, vốn có thể giúp để chuẩn bị cho việc sinh sản của chúng. Khi cá cái sẵn sàng sinh sản, thể hiện qua sự thích thú và tiếp cận cá đực, nó bèn được chuyển sang hồ có cá cái. Việc chuyển hồ có lẽ không ảnh hưởng lâu đến cá đực; nó thường bắt đầu de mái (courting) trong vòng vài phút sau khi xuất hiện trong hồ cá cái. Tại thời điểm này, việc quan sát cẩn thận là cần thiết. Nếu một hay nhiều cá cái sẵn sàng để sinh sản, việc bắt cặp (courtship) diễn ra sau đó (như mô tả ở dưới). Tuy nhiên, nếu không cá cái nào đáp ứng với khúc dạo đầu của cá đực, thì nó sẽ đuổi và cắn chúng đến mức bị thương nghiêm trọng và có lẽ chết. Giả sử việc bắt cặp được theo dõi, những cá cái không-chịu-đực (non-receptive) nên được bắt ra khỏi hồ để tránh bị thương và biệt dưỡng tiếp.

    Hành vi sinh sản điển hình được quan sát như sau. Một lãnh địa sinh sản – chủ yếu được bảo vệ bởi cá đực dường như mềm dẻo về địa điểm, tùy vào hoạt động của cá cái và lựa chọn của nó về địa điểm đẻ trứng. Trong tất cả những lần sinh sản được quan sát, không hề có việc chuẩn bị địa điểm. Bề mặt sinh sản hoàn toàn đa dạng, biến thiên từ chân ống nước thẳng đứng đến đáy cát trong hồ. Việc bắt cặp bao gồm cả diễn ngang lẫn phùng mang ở cá đực, cũng như kiểu lắc đầu điển hình của loài được thực hiện với miệng mở hay với hàm trên “bặm” vào hàm dưới và giữ gần đáy. Trong khi màu sắc của cá cái thường không đổi, cá đực phát triển màu đen bóng trên các tia mang dưới (branchiostegal ray) và rìa trước của vây bụng và vây hậu môn. Việc bắt cặp tiếp diễn trong 2-4 giờ mà ở đó vòi đẻ lòi ra và sinh sản bắt đầu. Sau nhiều đợt lướt “thử” điển hình như ở nhiều loài cichlid, cá cái bắt đầu ép thân lên địa điểm sinh sản và đẻ trứng. Nhìn chung, chỉ có một hay hai trái được phóng thích trong những đợt lướt đầu, nhưng theo tiến triển, sáu trái có thể được phóng thích trong một đợt lướt. Sau mỗi đợt lướt, cá cái quay lại và ngậm trứng vào miệng. Sau nhiều đợt lướt của cá cái, cá đực di chuyển đến phía trước, vuông góc với cá cái, ống dẫn tinh của nó hướng thẳng vào trước miệng cá cái. Khi cá đực rung lắc, tinh trùng được phóng thích vốn thụ tinh cho trứng bên trong khoang miệng. Thỉnh thoảng (nhưng không thường xuyên) cá đực có thể rời cá cái trong vài giây để xua đuổi những con tiến lại quá gần với địa điểm sinh sản. Khi sinh sản tiếp diễn, khoang miệng cá cái to dần vì nó chứa đầy trứng. Trong giai đoạn này, cá cái làm như thể “nuốt” trứng qua cử động liên tục của các hàm. Ngược với trường hợp của các loài cichlid đẻ trứng mặt đáy, lứa trứng Geophagus steindachneri rất ít. Những lứa đầu ở cá cái non, số lượng cá bột chỉ 12-15 con, nhưng số lượng sẽ tăng đến 45-60 ở những cá thể lớn hơn. Sinh sản kéo dài khoảng 60 phút đến khi cá cái mất hứng thú với việc ve vãn liên tục của cá đực. Vào thời điểm sinh sản kết thúc, cá đực nên được bắt ra để tránh sự căng thẳng thường trực hay tổn thương cho cá cái đang ấp trứng.

    Trong một số trường hợp, cá đực được thấy chuyển giao sự chú ý của nó sang cá cái thứ hai ngay sau khi sinh sản. Nếu có nhiều cá cái chịu đực (adaptive), cá đực có khả năng phục vụ tất cả chúng, sau đó nó nên được trả về hồ của mình.

    [​IMG]

    Mặc dù nhiều cá cái đang ấp trứng có thể được nuôi chung hồ, chúng thường thể hiện sự hung dữ với nhau dưới dạng “đâm ngang” (lateral butting) theo đó một con cái bơi lại và nhẹ nhàng thúc vào lườn con kia. Hành vi như vậy không gây tổn thương, nhưng có thể áp dụng để chiếm không gian hay sự riêng tư khi bầy con ra đời. Cá cái có lẽ trì hoãn việc phóng thích cá bột bơi tự do khi được nhốt chung với cá cái khác hay loài khác mà chúng coi là mối đe dọa cho cá bột mới vào đời. Để quan sát hành vi chăm sóc sau khi phóng thích và đảm bảo việc thu hoạch cá bột, nên tách riêng cá cái đang ấp trứng. Mặc dù giai đoạn ấp khoảng mười hai ngày ở 28 độ C, cá cái dường như kiểm soát việc chuyển giao mà không gây thiệt hại cho bầy con sau hai ngày ấp. Việc cung cấp thức ăn cho cá cái cũng có thể kích hoạt việc phóng thích cá bột, bởi cá cái không ăn trong giai đoạn ấp. Sau khi được phóng thích, cá bột sẽ chấp nhận ăn ấu trùng Artemia mới nở hay tấm nghiền, dẫu tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nhiều ở trường hợp đầu. Cá cái là bà mẹ tuyệt vời, kéo dài việc che chở bằng khoang miệng đến ba tuần tùy vào tốc độ tăng trưởng của cá bột. Khi cá bột lớn lên, cá cái nhanh chóng không thể chứa toàn bộ bầy con. Kết quả là, những con cá bột lớn hơn bị dôi ra, và những cá thể này sau đó bị đuổi khỏi khu vực ấp.

    Vào khoảng ba tuần tuổi, cá non bắt đầu hành vi “sục” đáy điển hình và có thể chuyển sang ăn các loại thức ăn khác như trùng huyết đông lạnh, artemia tươi sống và tấm (flake). Với việc cho ăn đầy đủ, thay nước thường xuyên, và vệ sinh máy lọc định kỳ, cá bột có thể lớn đến 2.5 cm ở tám tuần sau khi phóng thích và 4.5 cm ở mười hai tuần. Cá bột bắt đầu thể hiện lưỡng hình giới tính về màu sắc ở 14 tuần, lúc đó bạn có thể đem bán hay trao đổi. Ở 20 tuần, hành vi sinh sản có thể manh nha nhưng thường chẳng thành công cho đến khi hàng loạt nỗ lực được thực hiện.

    Trong khi cá hải hồ đầu đỏ có thể không phải là loài sục đáy sặc sỡ nhất, hành vi thú vị của nó và việc sinh sản dễ dàng chắc chắn khiến nó là một bổ sung giá trị cho bất kỳ bộ sưu tập cichlid châu Mỹ nào. Một thách thức cho các nhà chơi cá kinh nghiệm là tìm kiếm và lai tạo các loài ít nổi tiếng hơn trong nhóm cá “đầu đỏ”, Geophagus pellegriniGeophagus crassilabrus.

    Tham khảo

    Leibel, W. 1993. "Goin' south cichlids of the Americas part 9." Aquarium Fish Magazine 5(4):44-51.
    Loiselle, P. V. 1974. "The identity of the red hump Geophagus." Buntbarsche Bulletin 40:9-19.


    =======================================


    Khảo sát các loài cá hải hồ
    Lựa chọn cá hải hồ phù hợp với hồ nuôi của bạn
    Cá hải hồ quỷ juruparoid
    Lai tạo Peruvian Satanoperca jurupari – Trường hợp ấp miệng liền
    Nuôi và lai tạo cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840)
    Cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840)
    Satanoperca cf. leucosticta (Müller & Troschel) Cá quỷ mặt đốm Colombia
    Satanoperca cf. leucosticta “Amazon red”; cá quỷ ấp miệng liền từ Amazon
    Heckel acara vây tua Acarichthys heckelii (Mueller & Troschel 1848)
    Gymnogeophagus balzanii
    Gymnogeophagus labiatus, 2001
    Gymnogeophagus sp. “Rosario I”, loài mới từ Uruguay
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/6/17

Chia sẻ trang này