Màu Sắc Betta Cơ Bản Victoria Stark – http://www.bettysplendens.com/basic-betta-colors.html Cá betta xuất hiện trong một phổ màu rộng. Chúng có thể từ ngọc-sáng (jewel-bright) sang pastel mềm mại đến trắng tinh (pure white) hay hoàn toàn không màu. Những màu hiện hữu có thể được kết hợp hay pha để tạo ra nhiều màu hơn nữa. Vì lý do này, chúng là một trong những loài cá cảnh phổ biến nhất của mọi thời. Đây là những màu được công nhận bởi Hội Đồng Betta Quốc Tế (International Betta Congress): ĐỎ: màu đỏ ở cá betta là lớp màu vốn nằm ngay bên trên lớp đen. Ở betta hoang dã, phân bố của màu đỏ bị giới hạn ở vây bụng, vây hậu môn và đuôi. Ở betta đỏ đơn sắc, sắc tố đỏ bình thường được gia tăng về mật độ và mở rộng về phân bố để bao phủ toàn thân và vây của cá. Đột biến này được gọi là “Đỏ Lan” (Extended Red), và nó trội so với màu đỏ bình thường (hoang dã). Hầu hết cá betta đỏ tươi là những con vốn sở hữu cả gien đỏ lan lẫn gien blonde [hoe]. Một con betta không có gien blonde trông khá tối, gần như xám xịt (drab) khi so sánh. Betta đỏ lan vốn sở hữu gien blonde có màu đỏ đào (cherry), lý tưởng cho mục đích triển lãm. Một số cá đỏ lan có màu nhạt hơn, với cằm nhợt nhạt và vảy đen tối thiểu. Những con này thường thể hiện kiểu gien cambodian. HM betta đỏ lan với gien blond HM betta đỏ lan với gien blond============================================================================== ĐEN: Hiện có bốn thuật ngữ cho betta đen vốn đang được phát triển trong thú chơi ngày nay, MELANO BLACK, MARBLE BLACK, SUPER BLACK, và DOUBLE BLACK. Black Melano có lẽ là dạng cá đen phổ biến và lâu đời nhất, và nó tạo ra cá thật đen vốn hạp nhãn. Các nhược điểm của black melano là 1.) xu hướng nổi ánh kim trên thân (một lỗi), và 2.) cá melano mái đích thực không thể tạo ra cá bột sống sót. Bạn sẽ đôi khi nghe thấy việc này được đề cập như là “vô sinh mái” (female infertility), nhưng điều đó không hẳn đúng. Chúng giao phối và đẻ trứng như bất kỳ cá mái nào, và trứng được thụ tinh. Nhưng màng vỏ tan rã trước khi bào thai có khả năng sống sót một cách độc lập. Chưa ai có thể khẳng định tại sao điều này lại xảy ra, nhưng một số cho rằng đó là vì phát xạ thí nghiệm (experimental radiation) vốn được sử dụng để khởi tạo betta đen. Melano betta phải được duy trì bằng việc sử dụng cá mái màu khác (thường xanh thép) vốn mang kiểu gien melano. Những bầy này sẽ cho ra 50% melano betta, số khác là cá đa sắc, hay bất cứ màu nào mà mẹ chúng mang. Trong 50% này, chỉ 25% (cá đực) có thể được sử dụng để lai tạo. Vì lý do này, cá melano thuần vẫn là sự thách thức, và một con chất lượng có giá rất cao. Black melano HM (đực) cản bởi Mark Ibara Black melano HM (đực) cản bởi Victoria Stark Steel blue melano geno (mái non) cản bởi Victoria StarkMarble black đang trở nên phổ biến. Loại này bao gồm Black Orchid [Hắc Lan], Black Ice [Hắc Băng] và toàn bộ đám hổ lốn betta vốn đang được bán như là Black Lace [Đen Viền]. Tuy nhiên, Black Lace betta gốc là cá đen nhợt nhạt với viền vây trong suốt, khác xa với kiểu hình “Black Lace” vốn được chấp nhận rộng rãi vào ngày nay. Black Lace gốc có lẽ xuất phát từ melano, bởi cái mái cũng vô sinh. Vì điều này, Black Lace đích thực không phải là loại marble, mà là một loại melano. Hầu hết cá betta mà bạn thấy ngày nay dưới tên “Black Lace” thực sự là loại marble, mặc dù rất giống với bề ngoài của Black Orchid và Black Ice. Black Orchid là cá đen với các vạch xanh thép trên vây, Black Ice có các vạch xanh dương, và Black Lace có thể có cả hai. Tất cả chúng đều có cùng gốc gác cơ bản, và đó là từ marble. Vì lý do này, chúng có thể khó khăn để phát triển, bởi màu sắc thường không cản thuần hay có thể té ra cả đống cá hoàn toàn marble và thậm chí một số butterfly và cellophane. Cho mục đích triển lãm, cá đen loại marble (marble type) thường bị phạt nặng vì màu ánh kim của chúng và việc thiếu màu đen đậm đặc. “Black Lace” đuôi tròn (đực non) cản bởi Victoria Stark “Black Lace” HM plakat (đực) cản bởi Victoria Stark “Black Ice” đuôi kép (đực non) cản bởi Victoria Stark “Black Ice” HM plakat (đực) cản bởi Victoria Stark “Black Orchid” đuôi kép (đực non) cản bởi Victoria Stark “Black Orchid” HM (đực) cản bởi WasanbettaSuper Black là phát triển mới hơn, một loại cá rất đen vốn bắt nguồn từ melano và metallic. Cá này kết hợp giữa màu đen đậm của melano với loại metallic, mà đó vốn là một cá lai. Dòng này tạo ra cá đen thẫm, chất lượng bằng việc sử dụng copper thay vì xanh thép (steel), do đó loại bỏ hầu hết ánh kim xanh. Nó được thay thế bằng ánh kim copper, vốn không quá nổi bật. Ngoại hình tổng thể là một con betta đen đơn sắc, thật sẫm. Phần hay nhất đó là, cá mái từ Super Black thường có khả năng sản sinh cá bột, tùy thuộc vào mức độ ánh kim copper của chúng. Mái đen càng nhiều ánh kim, thì khả năng sinh sản càng nhiều. Các nhà lai tạo Super Black đã phát triển một nhãn quan [phân biệt] mái nào có khả năng sản xuất cá bột, và mái nào hành xử như melano cái bình thường. “Super Black” plakat (đực non) cản bởi Victoria Stark “Super Black” plakat (đực) cản bởi Dong Metallic/melano geno black (đực). Tôi nghĩ con này được cản bởi SarawutTrong hành trình tạo ra mái đen khả sinh (fertile), Double Black được phát triển bởi nhà lai tạo IBC Connie Emery và được phổ biến bởi cựu binh Jim Sonnier. Đây là sự pha trộn giữa melano và cá đen loại marble và tạo ra mái đen khả sinh, sẫm hơn so với điều thường được thấy ở các loại marble. “Double Black” đuôi kép (mái) cản bởi Jim Sonnier “Double Black” (đực) cản bởi Jim Sonnier============================================================================== XANH: Có ba loại xanh khác nhau, xanh dương (royal blue), xanh thép (steel blue) và xanh ngọc (turquoise). Xanh dương trông đúng như tên gọi của nó, màu xanh thẫm đích thực. Xanh thép hơi ngả bạc ở bề ngoài, và cũng được biết như là xanh thép súng (gunmetal). Xanh ngọc là tông màu trung gian giữa xanh dương và xanh lục (green), nhưng cá xanh ngọc ngả tông xanh lục hơn (greener) được chuộng trong các triển lãm betta. Việc cản xanh dương với xanh dương sẽ cho bạn 50% xanh dương, 25% xanh thép và 25% xanh ngọc. Việc cản xanh thép với xanh ngọc sẽ cho ra 100% xanh dương. Việc cản bất kỳ kết hợp nào khác với nhau sẽ cho ra nửa màu này và nửa màu kia. Xanh Ngọc (Turquoise) Ở Betta hoang dã, màu Ánh Kim (Lam và Lục) là lớp đậm đặc nhất vốn có thể che phủ tất cả những màu khác. Phân bố bình thường của màu Ánh Kim bị giới hạn thành những nan như-tia (ray-like projections) trên các vây và nhiều hàng đốm ánh kim chạy dọc theo thân cá. Mật độ màu thường rất dày ở những vùng đó. Màu Ánh Kim thường ở Betta hoang dã là Xanh Lục. Màu xanh lục (green) ở cá betta thường đồng nghĩa với xanh ngọc (turquoise) bởi vì màu thường có tông xanh dương (blue tint). Gien đột biến được gọi là “Ánh Kim Lan” (Spread Iridescence) bởi vì sắc tố xanh lục thường (normal green) được gia tăng về mật độ và mở rộng về phân bố để bao phủ toàn thân và vây của cá. Gien đột biến này khiến cá Betta có màu Xanh Lục đơn sắc ngoại trừ ở phần đầu. Đột biến Ánh Kim Lan là trội so với gien ánh kim thường. Cho mục đích triển lãm IBC, xanh lục và xanh ngọc được đánh giá trong một lớp kết hợp. Nếu mọi yếu tố khác đều như nhau, cá với tông xanh lục nhất (greenest shade) sẽ được ưu tiên hơn cá vốn ngả màu xanh ngọc. Xanh Thép (Steel Blue) Betta xanh thép được tạo ra bởi một gien đột biến khi mà màu xanh lục thường bị thay đổi để nó trông như màu xanh thép (hay “thép súng”) thay vì xanh lục. Đột biến màu này tác động lên cả hai, phân bố ánh kim thường và phân bố ánh kim lan (spread iridescent). Điều này có nghĩa bạn có thể có xanh thép đơn sắc nếu đột biến màu này được kết hợp với đột biến Si. Không cái nào giữa xanh thép hay xanh lục là trội với cái kia, nhưng việc kết hợp cả hai sẽ tạo ra một màu ánh kim nữa: xanh dương. Dòng này đôi khi có thể gặp vấn đề lem vây hậu môn (anal fin wash). Thường là lem đỏ mặc dù đôi khi bạn cũng thấy lem xanh lục và/hay xanh dương trên những vây khác như vây bụng. Nó thường nằm ở gốc của vây hậu môn, kéo dài từ trước ra sau. Lem “ẩn” chỉ có thể được phát hiện bằng việc chiếu đèn qua vây từ phía đối diện. Loại lem này được bỏ qua trong Sổ Tay Tiêu Chuẩn IBC và bởi các trọng tài IBC, tuy nhiên mọi người phải nỗ lực loại bỏ nó khỏi dòng cá của mình càng nhiều càng tốt. Xanh Dương (Royal Blue) Betta Xanh Dương (Royal Blue) được xếp vào thể loại Ánh Kim theo Tiêu Chuẩn IBC. Dòng này đôi khi gặp vấn đề lem vây hậu môn (anal fin wash). Thường là lem đỏ mặc dù đôi khi bạn cũng thấy lem xanh lục và/hay xanh thép trên những vây khác như vây bụng. Nó thường nằm ở gốc của vây hậu môn, kéo dài từ trước ra sau. Lem “ẩn” chỉ có thể được phát hiện bằng việc chiếu đèn qua vây từ phía đối diện. Loại lem này được bỏ qua trong Sổ Tay Tiêu Chuẩn IBC và bởi các trọng tài IBC, tuy nhiên mọi người phải nỗ lực loại bỏ nó khỏi dòng cá của mình càng nhiều càng tốt. Cá xanh dương có một gien Xanh Lục thường và một gien Xanh Thép đột biến vốn kết hợp để tạo ra màu Xanh Dương trung gian. Không cái nào giữa gien Xanh Lục thường hay gien Xanh Thép đột biến là trội với cái kia. Những gien này tương tác để tạo ra sự hòa trộn của hai màu thành một màu mới. Ví dụ hàng đầu này về độ trội trung gian (intermediate dominance) tạo ra màu Xanh Dương. Dường như hơi lạ lùng khi việc ép cá xanh lục với xanh thép sẽ cho ra 100% xanh dương. Nói một cách đơn giản, điều này có nghĩa rằng cá Xanh Lục sở hữu hai gien Xanh Lục thường; cá Xanh Thép sở hữu hai gien Xanh Thép đột biến; và cá Xanh Dương sở hữu một gien Xanh Lục thường và một gien Xanh Thép đột biến. Turquoise doubletail (đực) Steel blue HM (đực) Royal blue HM (đực)============================================================================== VÀNG: Betta vàng còn được gọi là Non-red (NR) Betta. Gien đột biến này gây ra sự biến đổi của sắc tố đỏ thành vàng. Đột biến này tác động lên cả hai, đỏ thường và đỏ lan. Betta vàng phải không có sắc tố đỏ ở bất cứ đâu trên thân và vây của chúng. Đột biến NR là lặn so với gien tạo màu đỏ bình thường. Tông màu có thể biến đổi từ vàng nhạt đến vàng dứa (pineapple), sậm. Cho mục đích triển lãm, tông vàng chuối (banana shade) tươi sáng được chuộng. HM plakat vàng (metallic geno) được cản bởi Suporn Khumhom Plakat vàng (đực và cái) được cản bởi Victoria Stark HM vàng (đực) được cản bởi Xmanbettas============================================================================== CELLOPHANE: Như tên gọi, cellophane betta hoàn toàn không màu, với thân màu thịt hay trong mờ và vây trong suốt. Công lao cho việc sáng tạo ra chúng đôi khi được trao cho một nhà lai tạo tên là George Torres, nhưng cellophane khá phổ biến trong các bầy marble hay từ các bầy vốn mang kiểu gien marble. Đôi khi marble betta sẽ mất màu và trở thành cellophane theo tuổi tác, và ngược lại. Cellophane betta (đực) được cản bởi Victoria Stark============================================================================== CAM: Betta cam là kết quả của việc lai tuyển chọn vàng sẫm (darker yellow) mà Dr. Gene Lucas gọi là “NR-2”, cùng với [gien] đỏ lan, tạo ra một màu đỏ/vàng (cam) tươi tắn hơn. Một cá cam thật tươi (pumpkin), đậm với hiệu ứng vảy đen tối thiểu được mong đợi. Việc cản hai cá cam với nhau thường té ra 75% cam và 25% cambodian. Cambo mang gien cam (orange geno) x cam sẽ tạo ra 50% cam và 50% cambodian. Sự hiện diện của gien cam ở cá giống cambodian của bạn là cần thiết cho việc sản xuất cá cam. HM cam (đực) được cản bởi Victoria Stark Đuôi voan cam (đực non) được cản bởi Victoria Stark============================================================================== PASTEL: Pastel betta được nhận biết nhờ tông màu thu gọn, nhạt hơn của mình. Ở Pastel betta, màu sắc thiếu nền sẫm điển hình của các dạng non-pastel cùng màu. Chẳng hạn, Pastel xanh lục khác hẳn với Ánh Kim Xanh Lục được thấy ở betta xanh lục đơn-sắc. Opaque betta có thể trông như pastel khi chúng còn non, nhưng sau này được chấp nhận như là Opaque nhờ xu hướng gia tăng sắc tố ở Opaque theo thời gian một khi cá già đi. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng ở cá Pastel đích thực, yếu tố opaque bị hạn chế. Pastel betta thường được thấy nhiều nhất (nhưng không bắt buộc!) dưới dạng trắng, xanh lục và xanh dương: Pastel Trắng Màu trắng thật nhạt được mong đợi, nhưng không mong đợi tiệm cận màu trắng tinh (pure white) của Opaque, bởi vì pastel có biểu hiện giới hạn của yếu tố Opaque. Trên thực tế, cá Pastel với opaque đậm sẽ bị đánh lỗi trọng (severely) trong triển lãm IBC. Pastel Xanh Dương Khi nhìn vào một Pastel Xanh Dương, việc thiếu lớp nền sẫm ngay lập tức lộ ra. Màu xanh da trời nhạt là tông màu lý tưởng ở Pastel Xanh Dương, và nó không được thể hiện yếu tố opaque, cho dù nhẹ. Sự hiện diện của nó trong một thể loại triển lãm IBC non-Opaque khiến cho việc thiếu vắng mọi [yếu tố] Opaque là điều cần thiết, và là một lỗi ở dòng này. Pastel Xanh Lục Màu xanh lục nhạt, nhẹ vốn thiếu lớp nền sẫm điển hình là lý tưởng. Điều này có nghĩa không có lớp nền sẫm bên dưới các lớp nhạt. Cũng như pastel trắng và xanh dương, pastel xanh lục không được thể hiện yếu tố opaque. Cũng như pastel xanh dương không được thể hiện bất kỳ tông xanh lục nào, pastel xanh lục không được thể hiện bất kỳ tông xanh dương nào cho dù nhỏ đến đâu. Một nhánh (offshoot) của pastel là PASTEL GRIZZLED, loại hoa văn tương đối phổ biến mà trong đó màu ở vây cũng lắc rắc (peppered) trên thân, thường để lại đầu bợt (clear). Green pastel (đực) được cản bởi Jim Sonnier Pastel grizzled HM (đực) được cản bởi Suporn Khumhom============================================================================== TRẮNG: Còn được biết như là “Opaque”, betta trắng được phát triển bởi nhà sáng lập IBC, Dr. Gene Lucas từ Non-Red (vàng), Ánh Kim Lan (Spread Iridocyte), Xanh Thép (Steel Blue), Cambodian, và một số “gold betta” của Walt Maurus, vốn xuất phát từ bầy pha cambodian/đen của ông. Kết quả sau cùng là một con betta trắng tinh với lớp màu dày được gọi là “yếu tố opaque”. Chúng là loại cá rất đẹp và phổ biến giữa các tay chơi. Cá Opaque là vấn đề yêu/ghét với nhiều nhà lai tạo bởi vì xu hướng ngả (hay mất!) đỏ theo thời gian của chúng. Cá này dường như cũng thiếu lớp nền sẫm “đen” điển hình. White Opaque nhất định là Opaque. Tông màu lý tưởng ở White Opaque (hay chính xác hơn, “Opaque Xanh Thép”) là màu trắng thuần, đậm trên thân và vây vốn có màu kem hay sữa, và cực kỳ tinh khiết. Lem đỏ hay xanh thép là vấn đề phổ biến ở cá Opaque, và bị coi là lỗi rất nghiêm trọng. Có thể rất khó để loại bỏ lem màu khỏi dòng opaque của bạn, và chỉ có thể được thực hiện thông qua rất nhiều bầy lai Opaque x Opaque mà không pha với dòng khác. Chẳng may, việc này có thể làm suy giảm đáng kể lượng màu opaque ở cá, nên cần pha với Xanh Thép để khiến màu dày trở lại. Với điều đó, lem màu lại được đưa vào, và chu trình tái lặp. Hầu hết cá opaque từ những dòng hàng đầu đều trắng tinh cho mọi mục đích và dự định đến khi chúng đạt 7 tháng tuổi hay đại loại, vào thời điểm đó chúng bắt đầu phát triển một số loại lem màu. Mục đích là tạo ra cá trắng vốn giữ trắng trong thời gian lâu nhất có thể. Có lẽ một ngày nào đó chúng ta thậm chí sẽ có white opaque thuần vốn giữ trắng cả đời! Nhìn chung, sự hiện diện của tông màu không-trắng là một lỗi. Opaque white doubletail (đực) được cản bởi Siamimbellis Opaque white (đực) được cản bởi Victoria Stark============================================================================== ĐA SẮC: Đa Sắc (Multicolored) là những con betta với hai màu hay nhiều hơn vốn được phân bố ngẫu nhiên (random). Một cách lý tưởng, các màu phải tương phản mạnh với nhau. Màu phải là những thứ thường được thấy ở cá betta, tuy nhiên việc đơn giản sở hữu riêng cái đầu khác màu, hay có màu khác lạ ở chóp của vây bụng là chưa đủ để được chỉ định cá Đa Sắc. ============================================================================== METALLIC: Metallic betta bắt nguồn từ việc pha (crossing) giữa Betta splendens [thuần dưỡng] bình thường với những loại betta hoang dã khác, như Betta imbellis và Betta mahachai [mahachaiensis] và thậm chí Betta smaragdina. Việc này lần đầu được thực hiện cách đây nhiều năm, và kết quả được gọi là “Neon Betta”, bởi các vảy dường như tỏa sáng. Việc lai tuyển chọn hơn nữa vào thời gian gần đây đã tạo ra cá metallic. Chúng ta hiện có metallic betta dưới dạng copper, xanh lục, xanh dương, vàng, platinum, tím và mọi màu khác có thể tưởng tượng ra. Màu của metallic betta thường lan đến nắp mang và đôi khi thậm chí phủ toàn bộ đầu/mặt của betta, dẫn đến hiệu ứng được gọi là “masked”. Hầu hết các dòng betta châu Á đều được châm (infused) bằng gien metallic, và chúng trở nên phổ biến đến nỗi hiện chúng thậm chí được tìm thấy ở các tiệm thú cưng. Copper HM (đực) Metallic green butterfly (đực) Copper HM (cái) Metallic green HM plakat (đực)
MARBLE: Marble betta [cẩm thạch] được tạo ra bởi một tù nhân có tên Orville Gulley, người nuôi cá betta của mình trong các lọ bơ đậu phộng. Câu chuyện như sau, Orville đang cố gắng tạo ra cá betta đen bướm (black butterfly) và vô tình phát hiện ra gien marble. Ông gửi vài con cá này cho thành viên IBC, Walt Maurus (cũng như một số nhà lai tạo khác) người nhận ra vẻ đẹp và bắt đầu cản chúng theo hoa văn (pattern). Chúng giống như ngựa Pinto của giới betta, với những mảng sẫm trên nền thân màu-thịt hay trắng, hoặc ngược lại. Những con marble đầu tiên là cá đen/trắng, nhưng về sau người ta phát triển thành đủ mọi tông màu có thể tưởng tượng ra, và giúp để định hình nhiều màu mới hiện khả dĩ ở cá betta. Marble gần như là gien trội một phần (partial dominant), vì vậy việc pha marble với cá đơn sắc sẽ cho bạn hầu hết cá đơn-sắc, với có lẽ một ít hoa văn-marble. Nếu cha mẹ đơn-sắc mang gien marble, thì tỷ lệ cá con marble của bạn gia tăng. Gien marble tác động lên màu đơn sắc theo cách không thể đoán được (unpredictable), tạo ra đủ loại hoa văn khả dĩ và kết hợp màu sắc mới. Tuy nhiên, nhà lai tạo có lẽ phải trải qua nhiều thế hệ (và nhiều thanh lọc) trước khi đạt được điều mà anh hay cô ta có trong đầu, và sau đó phải đối diện với thách thức khiến cho màu mới cản thuần (breed true). Cản marble với marble thường tạo ra một số đơn sắc nền-sẫm (dark-bodied solids), một số đơn sắc nền-nhạt (light-bodied solids), một số bướm (butterfly) và một số marble. Cá bướm thân-đơn sắc (solid-bodied) từ một bầy marble sẽ có cùng đặc điểm di truyền với cá đơn sắc vốn xuất phát từ dòng marble; khi cá bướm được cản với cá đơn sắc vốn bắt nguồn từ một dòng đơn sắc, thì cá con sẽ mang gien bướm trội-một phần. Các bầy đơn sắc nền-nhạt hay đơn sắc nền-sẫm từ cá marble sẽ tạo ra một số marble, đơn sắc và vây dị sắc (variegated). Nếu gien marble được giới thiệu vào cá đơn sắc cản-thuần thì sẽ cực khó để nhà lai tạo phục hồi cá của mình về thể loại đơn sắc thuần. Nhìn chung cá dường như luôn té ra một số marble hay lạc sắc (parti-colored). Một bầy pha của cá mang gien marble (marble geno) thuộc một thể loại màu có thể tạo ra hiệu ứng marble ở màu sắc của cá thuộc loại không-marble đó. “Dragon” marble HM (đực) Blue marble HM plakat (đực) Black marble plakat (đực)============================================================================== NHỊ SẮC NỀN SẪM: Nhị Sắc Nền Sẫm (Dark Bicolor) là cá có màu thân vốn thuộc số sáu Màu Sẫm được công nhận. Vây có thể là một trong số những Màu Sẫm khác, hay là một trong số những màu nhạt được công nhận (clear, vàng, cam, trắng). Nếu những cá này không có lớp nền sẫm (dark undercoating) đã mô tả thì chúng bị loại (disqualified). Sự tương phản là chìa khóa, với màu thân và vây hoàn toàn tách bạch ở phần nối (junction) giữa chúng. Không được có màu nào khác ngoài hai màu chính. Sự hiện diện của màu nữa, dẫu nhẹ đến đâu, cũng bị coi là một lỗi. Chẳng hạn, một thân đỏ với nhiều ánh kim sẽ được đánh giá theo tiêu chuẩn cho màu đỏ. Nếu các vây màu đen, chúng được chấm điểm theo tiêu chuẩn màu đen, nghĩa là nếu màu đen trên vây của betta Nhị Sắc có ánh kim trên đó, nó sẽ bị tính lỗi theo mức độ mà nó vi phạm. Masked blue & cam nhị sắc (đực) được cản bởi Aquastar Metallic green & vàng nhị sắc (đực) được cản bởi Suporn Khumhom Xanh & vàng nhị sắc (đực) được cản bởi Siamimbellis============================================================================== NHỊ SẮC NỀN NHẠT: Màu thân vốn không thuộc một trong số những màu nhạt được công nhận bởi tiêu chuẩn IBC không được chấp nhận ở Nhị Sắc Nền Nhạt. Vây có thể thuộc một trong số những màu nhạt khác hay một trong số những màu sẫm. Sự tương phản rất quan trọng, do đó vây sẫm màu được ưu tiên hơn vây nhạt, và màu thân/vây phải tách bạch một cách dứt khoát. Không được có màu nào khác ngoài hai màu chính. Sự hiện diện của màu khác nữa, dẫu nhẹ đến đâu, cũng bị coi là một lỗi và sẽ được đánh giá tương ứng. Nếu màu nào khác hiện diện trên thân và vây đều bị coi là một lỗi theo Tiêu Chuẩn IBC. Chẳng hạn, một thân Vàng (với ánh kim trên đó) được đánh giá theo tiêu chuẩn cho Màu Vàng. Nếu các vây Màu Đen thì chúng được chấm như trình bày trong Tiêu Chuẩn cho Màu Đen. Cambodian orange HM (đực) được cản bởi Victoria Stark Red cambodian crowntail (cái) được cản bởi Victoria Stark============================================================================== BUTTERFLY: Butterfly betta mang gien đột biến vốn gây ra vây dị sắc (variegated) theo một kiểu mẫu rất đặc trưng. Màu đầu tiên bị tác động bởi đột biến này là Đỏ, nhưng ngày nay Butterfly có thể được tìm thấy ở hầu hết những màu khác nữa. Vây của Butterfly (BF) betta thể hiện hoa văn viền (banded pattern) với điểm nhấn được đặt lên sự tương phản của viền thay vì màu thân và vây. Các viền phải sắc sảo -- không phải sự pha trộn của các màu đối diện mà phân chia đều giữa màu này với màu kia trên vây. Đột biến vây dị sắc là trội nhưng hiệu ứng biến thiên mạnh tuỳ mỗi cá thể. Các viền phải có độ rộng ít nhiều như nhau (một cách lý tưởng, ½ diện tích vây ở tất cả các vây) và đối xứng (symmetry). Sự thiếu sắc nét (definition) giữa các viền bị coi là một lỗi. Có hai dạng BF có thể chấp nhận: Hoa văn vây hai-viền, và hoa văn vây đa-viền. Các viền phải tương đối đồng đều về độ rộng (width) và kích cỡ (breadth) bất kể số lượng của chúng, và có sự tách bạch rõ ràng về màu sắc. Những điều cơ bản cần ghi nhớ trong việc xác định một BF “đẹp” là như sau: 1) Với vây hai-viền (two-band), các viền phải chiếm ½ diện tích vây ở tất cả các vây. 2) Với vây đa-viền (multiple-band), các viền phải chiếm 1/3 (hay hơn, tùy thuộc vào số lượng viền) diện tích vây ở tất cả các vây. 3) Đường phân cách giữa các viền phải rõ ràng và tạo thành hình oval xung quanh cá betta. 4) Mức độ mà theo đó màu thứ hai nhiễm vào (intrudes) hay sự thiếu sắc nét cũng ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của lỗi. Yellow butterfly doubletail (đực) được cản bởi Victoria Stark Cambodian red butterfly HM (đực) được cản bởi Victoria Stark Orange butterfly HM (đực) được cản bởi Victoria Stark Metallic green butterfly HM (cái) được cản bởi Suporn Khumhom============================================================================== DRAGON: Việc pha B. mahachai với metallic (copper) B. splendens cho kết quả một cá với ánh kim dày vốn được lai tuyển chọn gia tăng cho đến khi nó gần giống với vảy rồng. Những con “Dragon” này là cá betta rất xinh đẹp và sẵn có trong đủ mọi biến thể màu sắc và hoa văn.