Lai tạo Peruvian Satanoperca jurupari – Trường hợp ấp miệng liền Lee Newman, 1996 - http://www.cichlidae.com/article.php?id=37 Satanoperca jurupari từ sông Mormon ở Peru. Vào các tháng tư và năm, 1993, tôi đến vùng Peruvian Amazon để săn lùng loài Satanoperca mà một đồng nghiệp từng thu thập và chụp hình từ Rio Yarapa trong chuyến đi trước đó. Loài hải hồ (eartheater) này với cái mõm ngọc lục bảo (emerald), môi cam, thân màu đồng, và vây bụng dài khác với bất kỳ loài nào mà tôi từng biết. Trước đó, Leibel (1988) cũng thông báo một loài I]Satanoperca[/I] có lẽ chưa được mô tả từ khu vực tương tự, tạo thêm động lực cho nỗ lực thu thập của tôi. Trong tuần đầu tiên trên con tàu khách, Delphin, chúng tôi viếng thăm nhiều khu vực nơi cá được đánh bắt trước đây. Tuy nhiên, Rio Yarapa đang trong mùa lũ, việc thu thập rất khó khăn vì địa bàn của cá lan rộng, cộng với các vật cản dưới nước như cây chìm ngăn lưới của chúng tôi, và chúng tôi đã không thể tìm ra đối tượng của mình. Trong tuần thứ hai, chúng tôi ở “Trại Amazon” bên bờ Rio Momon, một nhánh của Rio Nanay, khoảng 45 phút đi thuyền từ Iquitos. Chúng tôi nhanh chóng học hỏi với sự trợ giúp của các hướng dẫn viên địa phương rằng nhiều loài cichlid qua đêm ở vùng nước rất nông dọc theo bờ của con sông ngập lũ. Theo lời khuyên của họ, chúng tôi chủ động thu thập được Laetacara thayeri, Crenicara punctulata và một loài Satanoperca vào ban đêm bằng cái vó cán dài, cứng từ bờ sông ngay trước trại. Theo Kullander (1986), Satanoperca jurupari là loài duy nhất trong chi được phát hiện ở Peru, dù có những khác biệt sinh học nhỏ về màu sắc và hình dạng giữa các quần thể. Trong số mẫu vật mà chúng tôi bắt được, 20 cá thể (khoảng 60 mm chiều dài tổng) được giữ lại và vận chuyển sống về Canada. Tôi đoán rằng chúng đạt tối thiểu sáu tháng tuổi dựa trên kích thước cá. Rio Mormon ở Peru. Loài cá hải hồ mới này nhanh chóng ổn định, sự nhút nhát ban đầu của chúng thể hiện qua hành vi dựng thân, lo lắng, nhất là trong khi ăn, ở vài tuần đầu. Thêm nữa, chúng chứng tỏ không khó gì để làm quen với thức ăn cá cảnh. Trùng đỏ đông lạnh, trùn đất tươi băm nhỏ, và viên Cichlid đều được háo hức chấp nhận. Chúng từng được nuôi trong hồ tương đối rộng (200-650 lít) bằng nước hơi acid, mềm, ấm (29 độ C, 1 DH, pH 6.5) được giữ sạch bằng bộ lọc hiệu quả và việc thay nước thường xuyên. Cá hiện đạt chiều dài 15-18 cm. Trong số hai mươi con, tám được chuyển cho hai chiến hữu, và bốn bị chết trong khi di chuyển vào tháng tư, 1994, còn lại tám con. Tám con này được nuôi chung trong hồ 650 lít được duy trì như mô tả ở trên trong nhiều tháng qua. Vào tháng mười, Danny Kent, một trong những chiến hữu của tôi, người nhận được bốn con, lưu ý rằng một trong số chúng bỏ ăn và dường như đang ấp trứng. Mặc dù không thấy việc sinh sản, hành vi điển hình trong vài tháng gần đây đã bao gồm diễn trước (front display) và diễn ngang (lateral display). Sau nhiều ngày, cá ăn trở lại và không có hành động đáng chú ý nào tiếp theo. Đến thời điểm này, chúng tôi vẫn cho rằng cá mới là loài cha mẹ ấp miệng trễ (biparental delayed mouthbrooder), nhưng trên thực tế, Danny không thấy bất kỳ sự ghép cặp, việc chuẩn bị địa điểm và đẻ trứng nào khác được thể hiện. Nhiều tuần sau, tôi thấy hoạt động diễn (display) gia tăng ở bầy cá trong hồ của mình. Tại thời điểm này, cá đạt tối thiểu hai năm tuổi và đã hoặc gần phát dục. Hai cân nhắc quan trọng khi cố lai tạo bất kỳ loài Satanoperca nào đó là (1) những loài hải hồ này là đơn hình giới tính, và (2) chúng chậm trưởng thành, cần ít nhất hai năm để trở nên thành thục về mặt sinh sản. Tuy nhiên, nhiều trong số tám con của tôi có vùng bụng đầy đặn hơn nhiều so với các đồng ang (tankmates) của chúng. Đoán chừng, những con này thể hiện cái và đực tương ứng. Tôi sử dụng kỹ thuật này (không tuyệt đối đáng tin cậy) để xác định giới tính, bởi tất cả chúng được nuôi cùng nhau trong 18 tháng và cá cái ở trong điều kiện tối ưu căng đầy bụng trứng vào kỳ phát dục. Vào lúc này, một cá đực (dựa vào vùng bụng thon hơn) đã chiếm một lãnh thổ, bảo vệ nửa hồ bên phải, vốn bao gồm một khúc gỗ ngâm nhỏ và một cây rong nhựa. Rồi cá đực với tia mang dưới (branchiostegal-ray) phùng ra, diễn ngang, bơi uốn éo, và diễn sục đã de một cá cái (với vùng bụng đầy đặn một cách đáng kể). Sau nhiều ngày ve vãn, cá cái được phép ở lại trong lãnh thổ của cá đực, trải qua hầu hết thời gian của mình bên dưới khúc gỗ. Sáu con kia bị cá đực – và ít thường xuyên hơn là cá cái – đánh đuổi bất cứ khi nào chúng đi lạc khỏi góc trái của hồ. Cá thể Satanoperca jurupari mới được đánh bắt từ Rio Mormon. Sau nhiều ngày tham gia bảo vệ lãnh thổ, cá cái bắt đầu làm sạch một vùng nhỏ, phẳng trên khúc gỗ theo cách thức điển hình của cichlid. Cũng cần lưu ý rằng đến trước thời điểm này, chẳng con nào thể hiện niềm yêu thích với khúc gỗ được để nằm trên đáy nền (được đưa vào làm giá thể đẻ di động). Cá đực, chủ yếu quan tâm đến việc bảo vệ lãnh thổ, ít tham gia vào hoạt động vệ sinh. Việc chuẩn bị địa điểm kéo dài nhiều giờ mà trong thời gian đó, vòi đẻ của cá cái nhú ra. Với khúc gỗ được chùi sạch đạt yêu cầu của nó, cá cái bắt đầu “lướt thử” với cá đực cạnh bên, chỉ rời đi một lát để đánh đuổi những kẻ xâm nhập. Sau nhiều lần lướt thử, cá cái đẻ 4-8 trứng nâu nhạt trên khúc gỗ, bơi ra xa một chút trong khi cá đực thụ tinh cho chúng, rồi quay lại và ngậm chúng vào miệng! Cá này là loài ấp miệng liền (immediate mouthbrooder), vốn trái ngược hẳn với những gì mà chúng ta mong đợi, bởi mọi thành viên thuộc nhóm - S. jurupari đều được báo cáo là những loài ấp miệng trễ (delayed mouthbrooder). Sinh sản kéo dài gần chín mươi phút, vào đoạn cuối của nó, cá cái có một miệng đầy trứng và cá đực thể hiện dấu hiệu mất hứng thú. So sánh với S. leucosticta, trứng của S. jurupari lớn và ít hơn. Địa điểm sinh sản cũng gần với kiểu ấp miệng liền hơn là ấp miệng trễ, theo lựa chọn giá thể đẻ cố định (non-movable) của cặp cá thay vì di động (mobile spawning platform). Một giờ sau khi sinh sản, cá đực đuổi cá cái đang ấp trứng (ovigerous) ra khỏi lãnh thổ của nó, không đóng vai trò gì nữa trong việc chăm sóc con. Thậm chí trong không gian tương đối chật chội của hồ 650 lít, cá cái còn liên tục bị quấy rối bởi cá đực giữ đất hay những cá thể khác bị dạt về góc trái của hồ. Bốn ngày sau khi đẻ, cá cái không ấp miệng nữa, bằng chứng là việc nó chịu ăn. Để chứng tỏ đây không phải là một trường hợp ấp miệng liền đơn lẻ, bất thường, một cá đực thứ hai đánh đuổi con cá cái gốc ra khỏi lãnh thổ của mình và sinh sản với hai con cá cái theo cách thức được mô tả như trên. Trung thành với hành vi ấp miệng liền của chúng, những cá này dường như tạp giao (polygamous). Dựa trên việc quan sát với số lần sinh sản phải công nhận là hạn chế này, cá đực thiết lập một lãnh thổ, dẫn dụ cá cái động dục vào sinh sản, rồi đánh đuổi nó khỏi lãnh thổ và bắt đầu ve vãn những cá cái động dục khác. Theo hai trong ba sự kiện sinh sản, cá đực được quan sát là có ấp miệng một số lượng nhỏ trứng. Tuy nhiên, hành vi này kéo dài trong không quá mười tám tiếng sau khi sinh sản. Tuần tự sinh sản của Satanoperca jurupari. Không lần sinh sản nào được mô tả ở trên cho ra cá bột. Dường như không con đực nào có năng lực sinh sản đầy đủ hay sự quấy rối thường trực với cá cái đang ấp trứng dẫn đến việc kết thúc sớm thời kỳ ấp miệng. Theo nỗ lực sinh sản sau cùng, cá cái đang ấp được dời từ hồ nhà sang hồ ươm 40 lít để kết thúc thời kỳ ấp trong hòa bình và yên tĩnh. Trong quá trình di chuyển nó phun ra 32 trứng, vốn được thu thập và đưa vào một lò ấp khí cải tiến. Ngày hôm sau, 30 trứng ấp nhân tạo chuyển sang màu trắng, chủ yếu bị hư hại khi xử lý. Tuy nhiên, hai trái vẫn nâu nhạt và dường như có trống (fertile). Tất cả trứng được ấp lò trong 42 giờ tại thời điểm hai trứng có trống được kiểm tra bằng kính hiển vi cắt lớp. Việc khảo sát bào thai hé lộ một nguyên sống (notochord) với tế bào hắc sắc tố và một vài dấu hiệu phát triển đầu. Dường như chỉ còn một, hai ngày nữa là nở. Để so sánh, trứng của S. leucosticta nở với sự trợ giúp của cha mẹ, ở 36 giờ sau khi đẻ với nhiệt độ tương tự (29 độ C). Không có gì ngạc nhiên nếu quãng thời gian từ khi cá bột nở đến khi bơi tự do ở S. jurupari dài hơn S. leucosticta. Những quan sát này dường như gợi ý rằng bên trong chi Satanoperca, có ít nhất hai (và có lẽ ba) chiến lược sinh sản. Bằng chứng là, chẳng hạn như số lượng và kích thước của trứng và quãng thời gian phát triển kéo dài, gợi ý rằng ngoài tự nhiên, dạng S. jurupari ở Peru là một loài tạp giao, ấp miệng liền. Tuy nhiên, cần nhớ rằng kết luận này chỉ áp dụng cho một quần thể đặc biệt và không thể đại diện cho những nhóm khác trong loài của mình. Đã nhiều năm trời, Satanoperca “jurupari” ở thú chơi thực ra là S. leucosticta trong hầu hết trường hợp, những loài cá hải hồ với đốm trắng nắp mang. Loài sau được lai tạo thường xuyên bởi các tay chơi và được biết là loài cha mẹ ấp miệng trễ. Tuy nhiên, quan điểm phổ biến rằng mọi Satanoperca đều là loài ấp miệng trễ là hoàn toàn sai lạc. Eckinger (1987) thông báo rằng S. daemon là loài ấp miệng cải tiến (modified), và theo Winter (1927), S. acuticeps là loài đẻ trứng mặt đáy điển hình (substrate-spawner). Dường như bên trong chi Satanoperca, phương thức sinh sản là một đặc điểm mềm dẻo, mỗi loài (hay quần thể?) đều tiến hóa một chiến lược vốn mang lại tác dụng trong môi trường đặc biệt của nó. Dẫu vậy, đấy là sự thấu hiểu (insight) thú vị về sinh học sinh sản của Satanoperca. Ghi nhận Tôi xin cảm ơn Jason Hutchison, Alex Saunders và Danny Kent vì trợ giúp trong việc thu thập và vận chuyển cá về Vancouver. Tham khảo Eckinger, 1987. Nachtzucht von "Geophagus" daemon. DCG-Info 18(7):132-134. Kullander, S.O. 1986. Cichlid fishes of the Amazon River drainage of Peru. Monograph, Swed. Mus. Nat. Hist. Leibel, W., 1988. Collecting new cichlids the easy way: a reluctant explorer hits paydirt in Peru. Bunt. Bul. (124):2-14. Winter, P. 1927. Zucht und pflege von Geophagus acuticeps Heckel. Woch. Aquar.-Terr. XXIV (no. 9), 1 Marz. ======================================= Khảo sát các loài cá hải hồ Lựa chọn cá hải hồ phù hợp với hồ nuôi của bạn Cá hải hồ quỷ juruparoid Nuôi và lai tạo cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840) Cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840) Satanoperca cf. leucosticta (Müller & Troschel) Cá quỷ mặt đốm Colombia Satanoperca cf. leucosticta “Amazon red”; cá quỷ ấp miệng liền từ Amazon Nuôi và lai tạo cá hải hồ đầu đỏ Geophagus steindachneri Heckel acara vây tua Acarichthys heckelii (Mueller & Troschel 1848) Gymnogeophagus balzanii Gymnogeophagus labiatus, 2001 Gymnogeophagus sp. “Rosario I”, loài mới từ Uruguay