Gymnogeophagus sp. “Rosario I”, loài mới từ Uruguay Tonny Brandt Andersen, 1998 - http://www.cichlidae.com/article.php?id=94 Cá đực Gymnogeophagus sp. “Rosario I” trong hồ nuôi. Vào mùa xuân năm 1996, các nhà thủy sinh Thụy Điển và một người Uruguay tạm trú ở Thụy Điển liên hệ với tôi. Pipo Cantera, người Uruguay, giải thích tình huống với tôi. Nói ngắn gọn, anh đã trở về Uruguay cùng gia đình, và có 2-3 năm tìm hiểu việc xin giấy phép để đem cá sống ra khỏi Uruguay. Giấy phép này hiện đã được duyệt, và anh muốn biết thông tin về các nhà bán sỉ ở Đan Mạch (và phần còn lại ở châu Âu). Chúng tôi có một loạt trao đổi vào cuối tuần, và nó kết thúc với việc tôi tham gia nhóm trở về Uruguay vào tháng mười một và mười hai năm 1996. Trong bốn tuần chúng tôi sẽ đi các vùng đông bắc và đông nam của Uruguay, thu thập cá, nhện và rắn. Chuyến đi này rất thú vị, bởi vì chúng tôi có thể dễ dàng bắt gặp nhiều loài chưa được mô tả, dựa trên một thực tế rằng Uruguay vẫn bất hợp tác với những quốc gia và các nhà ngư loại học khác trong nhiều năm trời. Hiện nay, điều này nhất định đã thay đổi, và nhà cầm quyền Uruguay cũng như các nhà ngư loại học và thủy sinh châu Âu đã rất thích thú với các kết quả trong chuyến đi đầu tiên của mình. Với tôi, có một loài chiếm vị trí đặc biệt trong tim mình. Tôi đã “yêu” ngay từ giây phút đầu tiên nhìn thấy nó và nó đã chứng tỏ có điều gì đó đặc biệt. Ở miền nam Uruguay, gần thị trấn Rosario, chúng tôi dừng lại và cắm trại bên bờ sông trong 3 đêm. Người dân ở thị trấn sử dụng sông Arroyo Colla như là nơi để vui chơi và bơi lội. Họ mang theo xe đạp, bóng đá và chó của mình, và rồi chỗ đó không còn vẻ đẹp thiên nhiên yên tĩnh, cùng với tiếng chim nữa. Việc thu thập diễn ra ở nơi mà chúng tôi dự định bắt một số cá vào buổi sáng và buổi tối, với kết quả đặc biệt tốt vào ban đêm. Và dẫu chúng tôi bắt được nhiều cá đẹp, đèn pin mà chúng tôi sử dụng thu hút muỗi và ai cũng bị muỗi cắn. Tôi sẽ không nói với bạn rằng vì cá mà tôi quên hết mọi ngứa ngáy bởi vì điều đó không đúng. Nhưng tôi sẽ đề cập đến số cá mà chúng tôi bắt được: Cichlasoma n.sp., Gymnogeophagus sp. “Rosario II”, Rineloricaria sp., Loricariichthys sp., Ancistrus sp., Synobranchus marmoratus, Salminus brasiliensis, Hoplias sp., Astyanax fasciatus, Steindachnerina biomata, Hyphessobrycon n.sp., và dĩ nhiên Gymnogeophagus sp. “Rosario I”. Dòng sông sâu và rộng từ 15 đến 20 mét ở một bên cầu, bởi vì cây cầu gần như hình thành một con đập, và ở bên kia, chỉ rộng khoảng 5 mét và sâu 1.5 mét. Có nhiều đá lớn dưới đáy, và hai bên bờ sông phủ đầy thực vật, chẳng hạn như lá trầu Echinodorus và cây bụi. Các cành từ cây và bụi cũng trĩu xuống nước, tạo thành nơi trú ẩn hoàn hảo. Nước được đo vào 10:30 sáng và nhiệt độ khoảng 26 độ C, pH là 7.5, GH 8 và độ dẫn là 365 μS. Lần đầu thấy cá này, tôi cũng được hỏi rằng tôi nghĩ nó là gì. Câu trả lời sau đó của tôi là nó nhất định phải là hoặc liên quan đến Gymnogeophagus gymnogenys bởi dạng thân, nhưng màu sắc và mảng đen nhất định khác. Cá đực có sọc đen đứng bên dưới mắt (suborbital stripe) và sọc này nối giữa hai mắt (superorbital stripe). Một sọc đen đứng, rộng cũng được thấy ở nửa trước của thân, ngay trước vây lưng. Sọc này nối với nắp mang và trông như thể dải bên (lateral band) bắt đầu từ đó, nhưng khi nhìn kỹ thì có thể thấy rằng nó [dải bên] bắt đầu bên dưới mắt. Một trong những sọc đứng hình thành đốm đường bên lớn. Màu thân là vàng với ánh lục xinh đẹp. Vây lưng, đuôi và vây hậu môn màu lam và đỏ, và đấy là chỗ duy nhất mà tôi cho là có màu sắc tương tự với Gymnogeophagus gymnogenys. Môi của loài cichlid này là metallic lam, và vì vậy, chúng ta chẳng thể sử dụng tên nào khác khi nói về nó ở Uruguay ngoài Gymnogeophagus “Blue lips” [môi xanh]. Chúng tôi còn bắt được nhiều loài Gymnogeophagus khác, nhưng không loài nào có môi xanh như thế này. Cặp Gymnogeophagus sp. “Rosario I” trong hồ nuôi. Tôi đem cá về Đan Mạch ngay trước lễ Giáng Sinh 1996, và có lúc bốn con “Blue lips” chia sẻ hồ 250 lít với sáu con Cichlasoma n.sp. và một số Gymnogeophagus sp. “Rosario II” cũng từ cùng một sông. Tôi mất một cá đực “Blue lips”, nhưng ngoài việc đó mọi thứ đều ổn. Vào đầu năm 1997, tôi có thể thấy trứng trên mặt đá. Cá cái phủ trứng bằng sỏi, và tôi có thể thấy nó đang bảo vệ địa điểm sinh sản. Nó không thể làm tốt công việc, vì vậy tôi bắt hết cá khác ra ngoại trừ ba con “Blue lips”. Sau một vài ngày, chẳng còn trứng nào sót lại. Nhưng rồi sau không đầy một tuần, một lứa mới thế chỗ. Lần này và lần sau đó, cũng chẳng bao lâu sau khi trứng biến mất, đều không thành công. Rồi tôi hiểu ra rằng mình có một đực và hai cái, bởi vì không cá cái nào có thể đẻ ba lần trong vòng hai tuần. Một ngày khi tôi đi làm về, một lứa mới thế chỗ. Cá cái lại bảo vệ trứng, và sau đó vào buổi tối cùng ngày, nó che phủ trứng bằng sỏi. Nó bảo vệ trứng trong 3-4 ngày và rồi vào ngày 16 tháng tư, trứng biến mất. Tôi có thể thấy miệng cá cái ngày càng phồng to bởi nó ngậm nhiều ấu trùng bên trong. Vào tối ngày 17 tháng tư, tôi thấy cá đực canh cá bột, và tôi rất ngạc nhiên khi thấy cá cái không ở gần cá bột. Khi tôi lại gần cá đực bèn ra hiệu cho cá bột, và tất cả chúng bơi vào trong miệng nó. Đây là điều ngạc nhiên với tôi, bởi vì tôi mong đợi cá cái làm việc này, vì vậy tôi lấy camera và đặt nó trước hồ, sau 15 đến 20 phút tôi đã có toàn bộ “show diễn” trên video. Và tôi hỏi vài người bạn của mình về hành vi này. Bởi vì ngày đó chỉ có cá đực chăm sóc cá bột, và tôi đoán nó đã chăm sóc khoảng 40 đến 70 con. Vào ngày 24 tháng tư, tôi có thể thấy cá bột đã phát triển quá lớn đến nỗi nó không thể chứa tất cả trong miệng của mình. Và khi tôi lại gần hồ, nó hớp vào miệng nhiều cá bột nhất có thể và bỏ qua số còn lại. Thậm chí ở giai đoạn này, cá cái cũng chẳng giúp đỡ. Cả hai cá cái đều trốn sau rễ cây, và tôi có thể thấy cá đực không thể giữ tất cả cá bột trong miệng mình nữa. Do đó một số con bơi tung tăng khắp hồ. Sau vài ngày tôi nghĩ tốt nhất nên bắt cá bột ra để giúp chúng sống sót. Sẽ chẳng dễ chịu nếu bỗng nhiên chúng biến mất hết. Điều thú vị đó là khi tôi bắt chúng ra, tôi phát hiện hai cỡ, vốn phải là kết quả của hai bầy. Cá cái Gymnogeophagus sp. “Rosario I” trong hồ nuôi. Có lúc tôi từng nuôi cá lớn cùng với loài khác, mà không có lứa mới nào, nhưng rồi tôi tự hỏi không biết đây có phải là vì mùa đông ở Uruguay hiện đang diễn ra lúc này? Tôi lại cách ly ba con, và chẳng bao lâu một lứa mới xuất hiện. Tôi lại có thể thấy trứng trên hòn đá dẹp gần mặt hồ phía trước. Sinh sản diễn ra vào ngày 14 tháng bảy và cá cái đang canh trứng, lần này nó cẩn thận hơn những gì mà tôi thấy trước đây. Vào ngày 15 tôi có thể thấy cá đực lại gần trứng, khi cá cái không trong tầm nhìn, có lẽ đằng sau đám rễ cây. Trứng vẫn nằm trên mặt đá. Tôi có thể đếm được 30 trái ở nhóm trung tâm. Trứng và sỏi phủ bên trên chúng được dời đi vào ngày 16 và tôi có thể thấy rất nhiều việc đào bới được thực hiện quanh đám cây. Chẳng may tôi cũng thấy cá đực rượt đuổi hai cá cái, điều khiến tôi tin rằng không cá bột nào sống sót. Vào ngày 20 tôi thay 50% nước và vẫn chẳng có con cá bột nào xuất hiện trong hồ. Điều này lại xảy ra vào hai ngày sau khi thay 50% nước. Vào ngày 26 tháng tám, tôi lại có thể thấy trứng trên mặt đá, nhưng nó lại trống trơn vào ngày hôm sau. Khi muốn vui vẻ, tôi phải qua hồ nuôi cá non từ lứa tháng tư. Chúng đã lớn được 2-3 cm. Tôi nghĩ chúng có thể lớn hơn, nhưng tôi nuôi chúng trong hồ nhỏ nơi tôi phải cẩn thận về sự cân bằng, và đảm bảo rằng mọi thức ăn được tiêu thụ hết. Dẫu vậy, tôi hạnh phúc khi có khả năng cung cấp cho bạn bè một loài cichlid cực đẹp mới từ Uruguay, và hy vọng loài cá xinh đẹp này cũng có thể đến tay bạn trong tương lai gần. Sông Arroyo Colla gần thị trấn Rosario ở Uruguay, địa bàn của Gymnogeophagus sp. “Rosario I”. ======================================= Khảo sát các loài cá hải hồ Lựa chọn cá hải hồ phù hợp với hồ nuôi của bạn Cá hải hồ quỷ juruparoid Lai tạo Peruvian Satanoperca jurupari – Trường hợp ấp miệng liền Nuôi và lai tạo cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840) Cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840) Satanoperca cf. leucosticta (Müller & Troschel) Cá quỷ mặt đốm Colombia Satanoperca cf. leucosticta “Amazon red”; cá quỷ ấp miệng liền từ Amazon Nuôi và lai tạo cá hải hồ đầu đỏ Geophagus steindachneri Heckel acara vây tua Acarichthys heckelii (Mueller & Troschel 1848) Gymnogeophagus balzanii Gymnogeophagus labiatus, 2001