Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Gymnogeophagus balzanii

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 7/5/17.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Gymnogeophagus balzanii
    Kaycy Ruffer (www.kcff.net) - http://www.cichlid-forum.com/articles/gymnogeophagus_balzanii.php

    Những con cá này vốn xuất xứ từ Paraguay; Rio Parana. Điều kiện nước là 72-79 độ F, trung hòa, độ pH khoảng 7.0, độ cứng trung bình 8-13 dGH. Cá này có thể đạt tám inch chiều dài tổng ngoài tự nhiên (con cá đực của tôi chỉ dài có năm inch). Loài này được phát hiện vào năm 1972 bởi Heiko Bleher, ở Frankfurt, Tây Đức và Thomas Horeman ở London, Anh. Cá được thấy ngoài thú chơi là hàng cản hồ (captive-bred) và cá hoang dã rất hiếm.

    Tôi đang dạo quanh Capitol Aquarium, tọa lạc ở Sacramento, California, vào một ngày hè rực rỡ năm 1995 khi tôi nhìn vào một hồ nuôi bảy con cá bốn inch. Điều đập vào mắt tôi là hình dáng và hoa văn của chúng. Chúng không mảnh mai như hầu hết những loài cá khác. Chúng cũng không có dáng như cá ông tiên.

    [​IMG]

    Chúng nhất định có hình dạng khác biệt với bất cứ loài cá nào mà tôi từng thấy trong những năm chơi cá của mình. Cá đực có một cái “gù” lớn đầy chất lỏng trong suốt trên trán của chúng vốn bắt đầu từ đỉnh ở gốc (beginning) của vây lưng và tiếp tục kéo xuống đến môi. Hình dạng của cái “gù” này khiến chúng có cái đầu rất to và vuông vức. Chúng cũng lung linh với những đốm ánh kim lấp lánh từ lục đến lam ở hai bên lườn. Những đốm xinh đẹp này cũng được thấy ở vây bụng và vây hậu môn. Cá đực có tua dài ở vây lưng như hầu hết các loài cichlid. Cả hai giới đều có sọc đứng. Cá cái hơi nhỏ hơn cá đực, khoảng hai inch rưỡi đến ba inch, và không có “gù” trên đầu.

    Cá cái không có màu đẹp đẽ. Có một cặp ở góc hồ đập thân vào nhau và cá đực đang giương hết vây de mái. Từ kinh nghiệm trước đây của tôi với cichlid, cả hai có lẽ đã bắt cặp. Tôi bèn mua chúng.

    Tôi mang chúng về và thả vào hồ 30 gallon, cao. Tôi đặt một chậu hoa bốn inch với phần miệng hướng ra ngoài để tôi có thể quan sát chúng, một bộ lọc khí Hydro-Sponge #5 đặt ở cuối hồ và một cây ráy Anubius nanna lớn. Tôi cho chúng ăn tấm (flake), artemia đông lạnh và trùn chỉ vài lần mỗi tuần.

    Một tuần sau, cặp cá sinh sản trong chậu hoa. Chúng sinh sản ở mặt trong của chậu. Cá cái chăm sóc trứng trong khi cá đực bảo vệ cá cái và ổ trứng khỏi những kẻ xâm nhập, mặc dù chúng là những cư dân duy nhất.

    Khi tôi mua cặp cá, tôi đã không biết chúng sinh sản như thế nào. Tôi nghĩ chúng sinh sản như bất kỳ loài cichlid nào khác. Với sự ngạc nhiên của tôi, có và không. Đây là loài “ấp miệng trễ”. Cá cái sẽ gắp trứng từ 24 đến 36 giờ sau khi đẻ. Tôi tin rằng cá cái CHỈ gắp trứng có trống (fertile) theo cách này. Với hầu hết các loài cichlid ấp miệng, trứng được gắp liền bởi cá cái sau khi cá đực thụ tinh cho chúng. Cá đực đa thê (polygynist) và điều này có nghĩa rằng nó sẽ giao phối với bất kỳ cá cái nào sẵn sàng đẻ trứng.

    Cá cái thường chăm sóc trứng và cá bột trong khoảng ba tuần và rồi khi nó phóng thích cá bột ra, chúng đã tiêu thụ hết noãn hoàng và sẵn sàng ăn artemia mới nở. Với lần sinh sản này, cá cái đợi thật lâu mới phóng thích cá bột. Đấy là lần sinh sản đầu tiên của nó nên tôi thực sự chẳng ngạc nhiên. Sau cùng, khi nó chịu phóng thích thì tất cả cá bột đều đã chết. Tôi quan sát cặp cá qua camera của mình và có thể thấy nó để chúng bị đói đến chết. Bầy tiếp theo, tôi dời và đặt trứng vào một cái lưới mịn mà tôi treo ở đầu hồ. Bằng cách này, tôi có thể kiểm tra mất bao lâu để trứng nở và để cá bột bơi tự do.

    Đây là điều mà tôi thấy thú vị về cá cái sau khi nó phóng thích cá bột vốn đã chết. Tôi có một lưới khác treo ở đầu hồ với một số cá chuột bột Corydoras paleatus hai ngày tuổi. Khi tôi dọn xác của những con cá bột kém may mắn, tôi vô tình đụng vào lưới đựng cory bột. Bảy mươi phần trăm cory bột rơi xuống hồ! Phản ứng đầu tiên của tôi là cố gắng bắt tất cả cá bột ra trước khi cặp cá xơi chúng. Với sự ngạc nhiên của tôi, cá cái bắt đầu gắp từng con cory nhỏ vào miệng mình và sau đó xuất hiện hành động “phủi” và “vệ sinh” cá bột, rồi nó phun ra. Nó làm điều này trong nhiều ngày và cá cory bột nhìn chung chẳng phiền lòng. Vào ngày thứ ba, cory bột đủ lớn để dời sang hồ riêng nhằm nuôi thúc. Con cá cái này nhất định có bản năng làm mẹ.

    Trở lại đám balzanii bột. Cần bốn ngày để trứng nở và mười tám ngày để cá bột bơi tự do. Hiện giờ, khi cặp cá sinh sản và tôi muốn để trứng cùng với cá cha mẹ, tôi đã biết phải mất bao lâu trước khi cá bột bơi tự do. Ngày mà cá bột sẽ/phải được phóng thích tôi bắt đầu bỏ artemia mới nở vào hồ với hy vọng rằng một số artemia sẽ đến được chỗ cá bột thông qua miệng của cá mẹ nếu nó chần chừ chưa chịu nhả.

    Tôi bán hết toàn bộ cá bột và buồn thay, sau vài tháng tôi bị mất cặp cá cha mẹ. Sau khi mất chúng, tôi gần như phát điên với chính mình vì không giữ lại một số cá bột để nuôi tiếp nhằm giữ giống cho riêng mình.

    Vào tháng mười hai năm 1996, tôi đang ngắm cá trong ngư phòng (fish room) của một người bạn. Ngay trước khi về, với một cặp giống Neolamprologus sp. “Daffodil” và một cặp giống Julidochromis dickfeldi, có gì đó đập vào mắt trái của tôi. Đó là cái hồ ở bên trái tôi, dưới tầng thấp. Tôi không thể tin vào mắt mình khi nhìn kỹ lại. Cô ấy có năm con Gymnogeophagus balzanii trưởng thành! Một đực và bốn cái. Qua trao đổi giữa chúng tôi về cá, tôi phát hiện ra rằng chúng vốn là cá bột của tôi. Tôi đã bán cho cô khoảng một chục cá bột vào đầu 1995. Tôi bay bổng đến trời. Cô bảo tôi rằng cô không thể lai tạo chúng và muốn đẩy hết đi. Cô cần hồ cho những loài mà cô đang cho sinh sản. Chúng tôi thỏa thuận và tôi mang năm con balzanii về nhà. Bạn tôi đến hai tuần sau và trong khi cô viếng thăm, cá đực sinh sản với cá cái lớn nhất ngay trước mắt chúng tôi trong hồ cộng đồng 55 gallon. Cô ấy không thể tin vào những điều mình đang chứng kiến. Cô kết luận rằng tôi có khiếu trong việc nuôi và lai tạo loài này.

    Tôi thả năm con cá này vào hồ cộng đồng 55 gallon bởi vì tôi không có hồ riêng cho chúng để sinh sản vào lúc này. Một khi chúng bắt đầu sinh sản trong hồ cộng đồng, tôi quyết định để chúng ở đó và chỉ bắt cá cái sang hồ mười gallon để nó chăm sóc trứng và cá bột trong yên tĩnh. Cá cái thứ hai mà cá đực sinh sản với là con nhỏ nhất. Nó đối xử với con này hoàn toàn khác với con thứ nhất. Sau khi cặp cá sinh sản nó từ chối để cá cái lại gần trứng. Có lúc trông như thể nó đang tự ấp trứng, nhưng không phải vậy. Khi nó rượt đuổi cá cái khắp hồ để tránh xa khỏi trứng, những cá chung hồ khác chẳng do dự xơi ngay món caviar thơm ngon. Tôi chưa từng thấy cá đực loài này giữ trứng bao giờ. Theo chỗ tôi biết, ngoài tự nhiên cũng vậy.

    Khi con cá cái nhỏ nhất đẻ nữa khoảng một tuần sau, tôi lấy trứng ngay sau khi cặp cá vừa sinh sản xong. Trứng rất nhỏ và trong suốt. Sau ngày thứ hai, mỗi trứng có hai chấm đen nhỏ. Sau bốn ngày nữa, trứng bắt đầu nở và cá bột có noãn hoàng lớn và thân hình rất nhỏ đến mức có thể đoán được loài mà nó sẽ trở thành hay nó đã nở chưa. Hai ngày sau, có thể nhận thấy một phần noãn hoàng đã được tiêu thụ bởi cá bột đang phát triển (sau này tôi biết qua một diễn giả tại cuộc họp ở thủy cung địa phương rằng tật cong lưng ở cá bột gây ra bởi dòng nước quá mạnh và rằng hầu hết cá bột sẽ không sống nổi. Rồi tôi bắt đầu sử dụng dòng nước tối thiểu để giữ cá bột mới nở cho đến khi chúng bơi tự do và từ đó không gặp vấn đề gì).

    Thời gian trôi qua, cuối cùng đến ngày mà cá cái phóng thích cá bột. Nó rõ ràng có một bầy cá con bao xung quanh. Cá cái bắt đầu thu thập cá bột bởi vì nó coi tôi như là mối đe dọa với cá con. Mỗi lần tôi bước vào ngư phòng vào buổi sáng để cho ăn, có thể thấy cá cái “búng” vây và co giật thân trước cá bột của mình để chúng biết nguy hiểm đang đến gần và chúng nhanh chóng bơi vào miệng nó một cách an toàn. Nó thu thập được hết ngoài ba con và tôi thấy chúng cố vào chỗ trú ẩn, miệng của cá mẹ. Sau gần bốn tuần, cá cái bắt đầu từ chối để cá bột nấp vào miệng nó. Công việc đã hoàn tất. Nó tiếp tục chăm sóc và bảo vệ cá bột mỗi khi tôi đến gần hồ, nhưng không giữ chúng trong miệng nữa.

    Tôi biết khi mất cặp cá của mình tôi đã ráo riết săn lùng nhưng đủ may để tìm thấy chúng ở nhà của bạn bè. Cặp cá gốc sinh sản ở 76 độ F và pH là 7.2 với dGH trên 13. Cặp cá mới sinh sản ở 76 độ F, pH bằng 7.0 với độ cứng dưới 8 dGH. Cá này dường như chẳng quan tâm đến sự khác biệt về thông số. Tôi nghĩ rằng chúng sinh sản tốt nhất khi được nuôi trong hồ cộng đồng và chúng không hung dữ với cá khác. Điều duy nhất mà chúng làm khi sinh sản là đuổi cá khác ra xa. Chúng không làm cá khác thiệt hại về thể chất. Nếu bạn nuôi chúng trong một hồ cộng đồng, nhớ đừng thả chung với cá dữ.

    Một điều nữa mà tôi phát hiện ở loài cá này đó là chúng rất nhạy cảm với nhiễm khuẩn khi quá nhiều chất thải được để tích tụ ở đáy nền. Bạn thực sự cần thay nước thường xuyên.


    =======================================


    Một số hình ảnh sưu tầm trên mạng:

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]


    =======================================


    Khảo sát các loài cá hải hồ
    Lựa chọn cá hải hồ phù hợp với hồ nuôi của bạn
    Cá hải hồ quỷ juruparoid
    Lai tạo Peruvian Satanoperca jurupari – Trường hợp ấp miệng liền
    Nuôi và lai tạo cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840)
    Cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840)
    Satanoperca cf. leucosticta (Müller & Troschel) Cá quỷ mặt đốm Colombia
    Satanoperca cf. leucosticta “Amazon red”; cá quỷ ấp miệng liền từ Amazon
    Nuôi và lai tạo cá hải hồ đầu đỏ Geophagus steindachneri
    Heckel acara vây tua Acarichthys heckelii (Mueller & Troschel 1848)
    Gymnogeophagus labiatus, 2001
    Gymnogeophagus sp. “Rosario I”, loài mới từ Uruguay
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/6/17

Chia sẻ trang này