Câu Chuyện Thực Sự về Halfmoon Vitoria Parnell - http://www.bettysplendens.com/the-true-story-of-the-halfmoon.html “Mr. G.” (Mr. Great) [Ngài Vĩ Đại], được cản bởi Peter Goettner. Rajiv mang theo ảnh này bên mình đến mỗi triển lãm mà ông tham dự với nỗ lực tìm ra con betta bằng với nó. Vào 1982, nhà lai tạo Mỹ Peter Goettner cản ra một con cá vốn tiến xa so với thời đại của nó. Đó là một con STM [đực đuôi đơn] xanh lục với đuôi gần 180 độ, và được phong tặng “Ngài Vĩ Đại” (Mr. Great) bởi cộng đồng hâm mộ betta. Goettner tiết lộ rằng ông mua cá giống mà sau cùng tạo ra “Ngài Vĩ Đại” (hay “Mr. G” như nó được gọi sau này) từ một nhà lai tạo khác, Parris Jones ở Mỹ, người đã cải thiện trên một dòng mà ông mua từ một nhà lai tạo Mỹ khác, Chuck Hale, vào 1977. Khoảng giữa 1983 và 1986, một nhóm các nhà lai tạo Pháp bắt đầu nhập con giống từ nhiều nhà lai tạo Mỹ hàng đầu, bao gồm Goettner và Jones, một trong số họ là Guy Delaval. Delaval vốn là một nhà lai tạo Bảy Màu thành đạt, và nhiều năm trước đã quyết định thử nhúng tay vào betta. Ông khởi sự với hàng chợ (pet store fare), nâng chất lượng đến mức mong đợi bằng việc lai tuyển chọn những con tốt nhất từ các bầy thử nghiệm của mình theo một hình thức rất đặc biệt: anh em với nhau, và rồi cha với con gái, trong nhiều thế hệ. Đặc điểm riêng ở dòng cá của Delaval đó là nhiều con trong chúng có mép vây trắng, một tính trạng vẫn được thấy ở nhiều con Halfmoon betta ngày nay. Khi chất lượng cá betta của Delaval tăng lên, ông bắt đầu nhận ra rằng mình đang hướng đến điều gì đó đặc biệt, và làm việc thậm chí cật lực hơn để hoàn thiện “ý tưởng” của mình. Làm việc với chỉ bốn hồ và khoảng hai mươi lọ, Delaval cản cật lực và thanh lọc (cull) gắt gao, chỉ giữ lại những con tốt nhất để phát triển dòng cá. Vào 1987, Delaval trưng bày cá của mình tại một triển lãm betta ở Lyon, Pháp. Mặc dù những con Halfmoon sơ khai (như chúng được gọi sau này) là tuyệt vời về hình dạng và sự đối xứng, chúng không thu được gì ngoài sự thích thú nhất thời từ các trọng tài tại triển lãm, chủ yếu vì thực tế rằng họ đã quen nhìn một dạng đặc thù (particular form) ở triển lãm betta và, kết quả là, ngại thay đổi quan điểm của mình về betta cảnh “lý tưởng”. Vào thời đó, những loại betta đang thắng giải là đuôi tròn (roundtail) và đuôi kép (doubletail), và cá của Delaval có lẽ trông khác hàng thập kỷ (eons apart) với những gì mà họ đã quen nhìn. Sau triển lãm, Chủ Tịch của Hội Anabantoid Đức (Anabantoid Association of Germany) viết một báo cáo tóm tắt về triển lãm, hết lòng khen ngợi những người tham gia và đoạt giải. Về những ứng viên (entries) cách tân của Delaval, ông chỉ viết rằng chúng “dễ thương”. Sau đó vào 1988, Delaval trưng bày cá của ông tại một triển lãm ở LeMann, Pháp. Mặc dù cá của ông lại bị xem nhẹ trong việc đánh giá, ít ra một chiến hữu lai tạo bị “sét đánh” bởi những gì mà Delaval có khả năng hoàn thành: Rajiv Masillamoni. Masillamoni có một thói quen luôn mang theo bên mình tấm hình của “Mr. G.”, mà ông trưng cho mọi người tại bất kỳ sự kiện betta nào mà ông có khả năng tham dự, hâm mộ sự hoàn hảo về hình dạng, và hỏi ông có thể mua cá với tầm cỡ tương tự ở đâu. Khỏi cần phải nói, khi ông mới chạm mắt những ứng viên của Delaval mà chúng thậm chí còn đẹp hơn về góc xòe (spread) và sự đối xứng (symmetry) so với những gì mà ông dám mơ ước, tấm hình của “Mr. G” vuột quên từ những đầu ngón tay ông. Ngay lập tức, ông bắt đầu hỏi han Delaval về cá của mình, và có khả năng mua hai trong số ba cá đực đuôi 180 độ mà Delaval đã mang cùng ông đến triển lãm, cũng như năm cá đực và hai cá cái khác từ cùng dòng. Masillamoni hào hứng đem các báu vật của mình về nhà ở Thuỵ Sĩ, nơi ông bắt đầu cản chúng một cách say mê. Ông bị sốc và kinh hoàng khi nhận ra rằng mỗi trong bảy con cá đực mà ông mua từ Delaval đều không thể sinh sản một cách thích hợp. Mặc dù chúng vẫn làm tổ và ve vãn cá cái, chúng dường như không thể quấn (embrace) [cá cái] và chăm sóc cá con. Đây dường như không phải lỗi về hình dạng, mà đa phần vì hậu quả của việc cận huyết (inbreeding) quá sâu, được khẳng định khi Masillamoni tham vấn hai nhà lai tạo khác vốn mua cá từ Delaval -- Laurent Chenot và Marc Maurin -- những người thông báo lỗi tương tự. Hạn chế bằng việc dựa vào riêng cá cái, Masillamoni pha chúng với betta hàng chợ (petstore), tạo ra cá vốn kém xa chất lượng con giống gốc của Delaval về hình dạng và sự đối xứng. Khi một cá cái chẳng may bị chết thì dường như toàn bộ cuộc phiêu lưu sẽ sụp đổ. Tuy nhiên, Vận May đã mỉm cười với Masillamoni và dự án của ông, và ông nhanh chóng được giới thiệu với một thành viên IBC Mỹ, người tình cờ đang viếng thăm Thuỵ Sĩ và tặng ông một con đuôi kép melano đực từ dòng cá của Parris Jones. Masillamoni cản cá đực này với cá cái Delaval còn lại của mình, và được tưởng thưởng bằng một con cá vốn vượt trội số còn lại. Con cá được đánh số “R39” và là một cá đực xanh lục với đuôi 180 độ hoàn hảo. R39 – cha của cá Halfmoon. Liều lĩnh phát triển dòng cá, Masillamoni cản nó với từng cá cái mà ông sở hữu, và rồi hợp tác với Laurent Chenot và nhà lai tạo Jean Luc Corso, những người cũng cản nó với các cá cái của họ. Hậu duệ của những bầy pha này hình thành nền tảng của dòng Halfmoon thực sự đầu tiên, và có thể tuyên bố một cách hợp lý rằng toàn bộ Halfmoon ngày nay đều là con cháu của một cá đực này -- R39. Vào 1991, Masillamoni đem cá betta 180 độ của mình đến Hội Nghị IBC Thường Niên (Annual IBC Convention) lần thứ 25, được tổ chức ở Milwaukee, Wisconsin năm đó. Ông kinh ngạc khi phát hiện rằng, một lần nữa, các trọng tài hoàn toàn xem nhẹ cá của mình qua việc ủng hộ loại đuôi kép và đuôi tròn hợp chuẩn hơn. Tuy nhiên, những ứng viên châu Âu không thoát khỏi sự chú ý của nhiều nhà lai tạo hàng đầu vào thời đó, bao gồm Jeff Wilson, Peter Goettner, Parris Jones, Paul Hardy và John Benn, những người đã mang một số cá của Masillamoni về nhà cùng họ để cản vào dòng cá cảnh của riêng mình. Cũng tại triển lãm này mà Jeff Wilson lần đầu nói đùa rằng dạng đuôi mới trông giống hình bán nguyệt (half moon) và dính chết tên “Halfmoon” [từ đó]. Phấn khởi nhờ sở thích chung, Masillamoni hợp lực với Wilson và Laurent Chenot để gắng gia cố tính trạng vào một dòng ổn định. Ba nhà lai tạo thường xuyên trao đổi cá tốt nhất của mình, với một con thường được chuyển cho cả ba, những bầy cùng cha (siring spawns) ở Mỹ, Pháp và Thuỵ Sĩ. Bằng việc cản cá tốt nhất ở cả ba nhà, họ có khả năng tạo ra Halfmoon betta một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn, cẩn thận ghi nhận bằng cả phim lẫn ghi chép để mà mỗi thế hệ tiếp theo đều tốt hơn thế hệ trước đó. Vào 1992, Masillamoni và Wilson quyết định trưng bày những con Halfmoon tốt nhất của họ tại Hội Nghị IBC 1992 ở Alabama, lặng lẽ thỏa thuận với nhau rằng, cho dù cá của họ lại bị chối bỏ trong cuộc thi, họ sẽ vẫn tiếp tục làm việc với dòng cá. Mặc dù họ trưng bày nhiều Halfmoon, chỉ một trong số cá của họ có giải -- một con xanh lục đoạt giải nhì ở thể loại Biến Dị - Dạng và Vây (Form and Finnage Variations). Giải nhất thể loại này và giải Cá Đẹp Nhất (Best Of Show) một lần nữa được trao cho những ứng viên đuôi tròn thông thường. Đội Halfmoon được cứu vớt khỏi nỗi thất vọng nhờ sự hâm mộ gia tăng thể hiện bởi những nhà lai tạo khác. Rút cuộc, sự hâm mộ đủ lớn để đảm bảo cho một câu lạc bộ betta mới chỉ duy trì và bảo tồn dạng Halfmoon, và International Betta Splendens Club ra đời. Trong khi lai tạo và trao đổi cá giống trên bình diện quốc tế, Masillamoni được tiếp cận bởi Marc Maurin, người yêu cầu một cặp Halfmoon vốn phục vụ như là con giống khởi đầu của ông tại Pháp. Vào lúc đó, Masillamoni chỉ có 5 con Halfmoon đực đủ tốt để cản, nhưng ông vẫn chọn con ít ưng ý nhất trong số đó của mình và đưa nó cho Maurin. Hai tuần sau, khi Masillamoni đang chuẩn bị đến một triển lãm betta khác ở Mỹ thì Maurin gửi trả con cá đực lại cho ông từ Pháp, tuyên bố rằng nó không thể sinh sản. Mặc dù Masillamoni không cho rằng con cá có chất lượng đủ tốt để đạt tiêu chuẩn của ông, sau cùng ông quyết định gộp nó cùng những ứng viên khác mà ông đưa sang Mỹ, bao gồm bốn anh em siêu Halfmoon cùng bầy. Khi quá cảnh (transit) đến triển lãm, Masillamoni bị ngăn cản bởi một tiếp viên, người lưu ý ông rằng cái túi chứa 25 cá cảnh của ông quá lớn để bỏ vừa vào ngăn trên đầu (overhead compartments) và phải đưa đến khoang hành lý (cargo hold). Ông phản đối một cách am hiểu, lưu ý cô rằng cái túi đựng những con cá sống giá trị trên đường tham dự một triển lãm quan trọng ở Mỹ, và ông sẽ không để chúng ngoài tầm mắt của mình. Khi tiếp viên cố chấp, Masillamoni (cằm ông ngậm chặt cương quyết) lưu ý cô rằng ông sẽ không bay nếu túi của mình không được giữ trong khoang hành khách (cabin). Với đôi bên thất vọng, một thỏa thuận sau cùng đạt được -- người tiếp viên sẽ mang cá vào khoang Hạng Nhất (First Class) nơi chúng có thể hoàn tất hành trình trong ngăn trên đầu rộng hơn. Giữa đường trên chuyến bay, Masillamoni quyết định kiểm tra xem cá như thế nào, nhưng khi ông hỏi thăm về chúng ở khoang Hạng Nhất, ông được báo rằng chúng sau cùng được chuyển đến khoang hành lý. Lo sợ điều tệ hại nhất, ông cuống cuồng tìm kiếm cái túi của mình, và sau cùng phát hiện nó ở khoang không điều áp (unpressurized hold). Tất cả 25 túi đều bị nổ, và cá nằm thoi thóp và nhúc nhích yếu ớt trong các túi rỗng. Hoảng sợ, Masillamoni kêu ầm lên, đến nỗi ông gây nên nên sự chú ý của Tiếp Viên Trưởng (Chief Steward), vốn là người yêu thích cá cảnh và nắm quyền xử lý tình huống. Anh cung cấp túi nhựa và yêu cầu các nữ tiếp viên (stewardesses) mang cho ông nước đóng chai. Bởi vì nó được cấp đông, các nữ tiếp viên được chỉ thị sưởi ấm từng chai bằng một máy sấy tóc cho đến khi nước đạt nhiệt độ phòng, và rồi anh cùng Masillamoni cẩn thận thả những con betta đang quằn quại vào các túi nước mới. Hạnh phúc thay, con nào cũng sống sót. Bởi ông là một phụ tá Trọng Tài, Masillamoni rất bận rộn tại triển lãm, nhưng chẳng thể giúp gì ngoài việc thấy rằng, một lần nữa, cá Halfmoon của mình đang bị xem nhẹ so với những con đuôi tròn và đuôi delta. Che dấu nỗi thất vọng của mình, ông tập trung vào công việc trước mắt và cố không nghĩ về nó nữa. Tuy nhiên, khi sắp xếp cá chiến thắng ở từng thể loại (class winners) để đánh giá Cá Đẹp Nhất (Best of Show), ông phát hiện ra giải nhất thuộc về một con đực xanh lục rất độc đáo -- một con Halfmoon! Quan sát kỹ hơn, ông nhận ra đó là con cá bị Marc Maurin trả lại, con cá mà ông đã không xem là đủ tốt để dự thi. Bằng cách nào đó, ngay cả các trọng tài cũng thất bại khi đánh giá về những cá thể Halfmoon tốt hơn, con cá này đã đứng đầu thể loại Xanh Ngọc/Xanh Lục và bây giờ đang cạnh tranh cho giải Cá Đẹp Nhất. CHENMASWIL halfmoon Khi lần lượt từng ứng viên cho giải Cá Đẹp Nhất bị loại, Masillamoni đang cắn móng tay mình. Con Halfmoon xanh lục vẫn còn trong cuộc. Các trọng tài loại dần sự cạnh tranh, cho đến khi quyết định chỉ còn giữa ứng viên Halfmoon và một con xanh dương đực được cản bởi Peter Goettner vốn thể hiện góc xòe đuôi 160 độ. Rõ ràng các trọng tài ngả về cá của Goettner hơn, nhưng kết quả vẫn còn tranh cãi. Như phương kế sau cùng, họ mời một Trọng Tài giàu kinh nghiệm -- Mr. Jim Williams -- và hỏi ý kiến ông. Bởi vì đây cũng là trọng tài vốn chấm cho cá của Goettner giải nhất ở thể loại Xanh Dương nên Masillamoni cảm thấy vấn đề đã được định đoạt. Tuy nhiên, Williams cẩn thận kiểm tra cả hai con dưới ánh đèn pin sáng trong 10 phút, rồi chuyển qua một kính lúp. “Nó đây rồi!” sau cùng ông tuyên bố với đám đông đang chờ đợi. “Con xanh dương bị thiếu một cái vảy”. Giải Cá Đực Đẹp Nhất Hội Nghị IBC (IBC Convention Best of Show Male) được trao cho con Halfmoon Xanh Lục từ Thụy Sĩ. Khi điều đó xảy ra, một phóng viên của Tạp Chí FAMA cũng tham dự, và nhận ra sự khác thường của Halfmoon. Anh đăng hình Cá Đẹp Nhất lên trang bìa tạp chí và cũng viết một câu chuyện về nguồn gốc của Halfmoon. Với việc xuất hiện gia tăng, nhiều nhà lai tạo trên toàn nước Mỹ và châu Âu trở nên quan tâm với dạng cá, và nô nức kiếm cá từ dòng này. Peter Goettner, Sieg Illig, Leo Buss, Bonnie McKinley và những người khác bắt đầu cản theo dạng đuôi 180 độ. Sự kết hợp giữa việc phổ biến con giống và chất lượng cá đã giúp đại chúng hóa dạng này, và chẳng bao lâu Halfmoon betta chiến thắng các cuộc thi trên toàn nước Mỹ. Dẫu luôn đam mê cá bản địa của mình, các nhà lai tạo từ Thái Lan đã gửi những yêu cầu đặc biệt về con giống Halfmoon đến các nhà lai tạo châu Âu và Mỹ vào cuối những năm 1990, và nhiều nhà lai tạo có khả năng kiếm được những con đủ tốt để giúp người châu Á đặt một chân lên cây. Với điều kiện nuôi dưỡng và lai tạo lý tưởng của mình, họ có khả năng lấy một dạng và đi cùng với nó, và đến 2003 đã sản xuất cá một cách ổn định với chất lượng thậm chí còn tốt hơn những gì được thấy ở châu Âu và Mỹ. Ngày nay, dạng cá Halfmoon là ưu tiên tuyệt đối của các nhà lai tạo trên toàn thế giới, những người háo hức cản ra những con đẹp nhất bằng sự kết hợp giữa đam mê và khoa học, điều không được thấy ở hầu hết những thú chơi khác. Đây thực sự là dạng cá mà chúng tái định nghĩa các tiêu chuẩn của Betta Cảnh (Show Betta). Vô cùng biết ơn người bạn mới của chúng ta ở Thuỵ Sĩ, Rajiv Masillamoni, vì trợ giúp của ông trong việc hoàn thành bài viết này. Cả Rajiv lẫn Markus Gutzeit đều mong mỏi đóng góp thời gian và hình ảnh của mình cho tôi khi được hỏi, kể cả việc gọi điện thoại từ tận Thuỵ Sĩ và scan hàng loạt trang thư từ, ghi chép và hình ảnh. Tôi phát hiện Rajiv không chỉ là một người cực kỳ hào hiệp, mà còn là người kể chuyện hấp dẫn. Mặc dù tôi vốn hỏi Rajiv về một vài nội tình và làm rõ về lịch sử của dạng HM, tôi đã được tưởng thưởng bằng một câu chuyện thuyết phục và vô cùng xứng đáng mà nó chứa đựng mọi yếu tố lớn lao: đam mê, cuốn hút, trở ngại và CỰC KỲ éo le. Bởi vì toàn bộ câu chuyện không thể đưa vào dự án mà tôi đang thực hiện, nên tôi muốn đăng nó ở đây. Tôi hy vọng bạn cũng yêu thích nó nhiều như tôi. ======================= Một bài viết có tính lịch sử trên tạp chí FAMA (Harry Grier)