Cá hải hồ quỷ juruparoid Wayne Leibel, 1987 - http://www.cichlidae.com/article.php?id=115 Satanoperca jurupari từ [sông] rio Mormon ở Peru. Giới thiệu Khi biệt hiệu “Loài Ăn Đất” (Eartheater) xuất hiện trong trao đổi bất chợt của người chơi, con cá hầu như hiện sẵn trong đầu là loài cichlid châu Mỹ Satanoperca jurupari được biết nhờ dáng thuôn dài lấp lánh và thói quen kỳ lạ sục vào đáy nền để tìm kiếm thức ăn. Trên thực tế, chi Satanoperca Günther 1862, gần đây được biết bao gồm đến sáu loài có quan hệ gần. Đối với người hâm mộ cichlid châu Mỹ, một số nhóm phân loại tự nhiên mang lại đa dạng kinh nghiệm và thách thức chẳng hạn như Geophagines. Vài loài cichlid dễ nuôi và sinh sản nhất, cũng như vài loài khó khăn nhất, đều xuất phát từ phân họ này. Thêm nữa, những loài trong nhóm này thể hiện đủ loại hành vi sinh sản từ đẻ trứng nền đáy đơn giản đến ấp miệng trễ (sơ khai) và ấp miệng liền (tiến bộ). Các thành viên thuộc nhóm jurupari: jurupari, daemon và acuticeps, mang lại cho người chơi cá nhiều thách thức về sưu tầm, nuôi dưỡng và lai tạo, và do đó là trọng tâm của bài viết này. Tôi mong đợi, trong phần tiếp theo, tổng duyệt về sinh học và nuôi dưỡng nhóm ba loài cichlid châu Mỹ có quan hệ gần và hết sức thú vị này. Satanoperca jurupari (Heckel, 1840) Heckel mô tả loài chủ đạo của tam hùng (triumvirate) này, Satanoperca jurupari, vào năm 1840 từ bộ sưu tập của Johann Natterer ở Brazil. Tên riêng, jurupari, là chuyển ngữ từ tiếng Tupi cho “Quỷ Rừng” hay “Quỷ” và bắt nguồn từ tên địa phương của loài cá này theo báo cáo của Natterer: juruparipindi hay "lưỡi câu của quỷ" (dụ dỗ). Không thấy Heckel giải thích gì thêm, nhưng người da đỏ Nam Mỹ vốn e sợ rừng sâu vào ban đêm và tin vào quỷ Jurupari, dưới nhiều hóa thân thú vật, dụ dỗ những thợ săn dại khờ đi vào chỗ chết, có lẽ gán ghép những đặc điểm quỷ quái tương tự cho loài cá mũi dài, hình dong quái lạ này. Như tất cả những loài Satanoperca khác, jurupari sở hữu đặc điểm cung mang đầu tiên phân thùy (lobed) và nhiều rãnh (setiform raker) trên cạnh của toàn bộ bốn cặp cung mang vốn cho phép cá thuộc chi này sục sạo đáy nền để tìm kiếm thức ăn một cách hiệu quả. Kết hợp với cái mũi dài và miệng nhọn, trễ của juruparoid khiến ba loài này trở thành những máy sục cực kỳ hiệu quả. Thiên hướng sục sạo đáy nền phản ánh trong tên tiếng Bồ Đào Nha của loài này: pappaterra, nghĩa là loài ăn đất (eartheater) và là nguồn gốc tên Latin Satanoperca của Heckel, tên riêng S. pappaterra và tên địa phương của loài cá này. Trong lần tổng duyệt chi Geophagus, Gosse (1975) thỉnh thoảng kiểm tra mẫu vật chuẩn của nhiều loài tương tự jurupari. Cá jurupari phân bố rộng trong các nhánh của sông Amazon, Orinoco, và toàn bộ cao nguyên Guiana. Điều diễn ra ở hầu hết loài cá với phân bố rộng rãi như vậy, jurupari thể hiện những biến thể địa lý đáng chú ý. Mặc dù Gosse (1975) đã phát hiện những nền tảng thống kê mà dựa vào đó để phân tách loài theo vị trí địa lý, ông vẫn chọn bảo lưu toàn bộ quần thể dưới tên loài jurupari. Hơn nữa, khảo sát của Heckel (1840) về S. pappaterra ở Mato Grosso, của Meuller và Troschel (1848) về leucosticta ở Guyana, và của Fernandez-Yepez (1950) về mapiritensis ở Venezuela đã hé lộ rằng, tất cả đều thuộc vùng phân bố bình thường của S. jurupari và do đó là các tên đồng nghĩa của loài sau theo Gosse (1975). Mọi kiểu hình jurupari đều có cùng hình thái cơ bản, chỉ khác biệt về độ cao tương đối của đầu và thân so với chiều dài. Mọi kiểu hình sống mà tôi thấy đều có điểm chung là những dải ánh kim dọc lườn và đốm đen nổi bật ở góc trên của gốc đuôi (Hình 1). Màu nền của cá biến thiên từ bạc đến vàng-đồng và màu sắc ở vùng rỗ mặt và đốm vây cũng thay đổi. Khi căng thẳng, mọi kiểu hình jurupari đều thể hiện dải đen ngang từ mắt đến gốc đuôi và một loạt sọc đứng (Hình 7). Satanoperca jurupari là loài đơn hình giới tính (sexually isomorphic) về kích thước, vây và màu sắc. Cá thể lớn nhất được kiểm tra bởi Gosse (1975) đạt đến 20 cm chiều dài chuẩn (7.8 inch), và tôi có nhiều con trưởng thành ở kích thước đó và lớn hơn mẫu vật của Agassiz từ [cuộc thám hiểm] Thayer Expedition đến Brazil (1865-1866) tại Museum of Comparative Zoology ở Havard (Leibel 1983). Satanoperca daemon (Heckel, 1840) Satanoperca daemon cũng được mô tả bởi Heckel theo mẫu vật trong bộ sưu tập của Natterer. Mặc dù người Tupi dường như vẫn gọi cá này là “juruparipindi”, Heckel tỉnh táo phát hiện ra sự khác biệt về màu sắc giữa chúng và mô tả nó như là loài thứ hai; daemon, nghĩa là quỷ theo tiếng Latin. Nhìn bề ngoài, daemon và jurupari hoàn toàn giống nhau (xem Hình 3). Tuy nhiên, có nhiều khác biệt quan trọng (xem Bảng 1). Ở daemon, năm tia mềm cuối cùng của vây lưng làm thành tua đen lớn vốn dài quá đuôi. Ở những cá thể mới nhập về, đuôi và vây hậu môn màu đỏ huyết, nhạt dần thành màu cam nếu nuôi lâu (có lẽ vì thức ăn không đủ carotene). Đốm đen gốc đuôi ở jurupari, so với daemon, lớn hơn, đậm hơn và viền trắng rõ ràng. Đốm mắt (ocellus) gốc đuôi này là điểm phân biệt của loài ở cả những mẫu vật sống lẫn bảo quản. Khác với jurupari, daemon có một hay hai đốm đen (splotch) ở bên lườn; số lượng phản ánh nguồn gốc địa lý. Hầu hết daemon nhập khẩu hiện nay từ Colombia và chúng nhìn chung có hai đốm đen bên cạnh đốm gốc đuôi (Hình 3). Tương tự jurupari, những con daemon này có những dải ánh kim trên cách mỗi hàng vảy. Thỉnh thoảng, Brazilian “daemon” xuất hiện năm nay lẫn trong các đợt hàng jurupari. Khác với đồng loại ở Colombia, những con này chỉ có một đốm đen, màu nền xám thép và thiếu dải ánh kim (Hình 4). Hơn nữa, trong khi hai đốm đen ở cá Colombia nằm dưới đường bên, thì một đốm đen ở cá Amazon lại nằm ngay hay trên đường bên (xem Axelrod 1985, trang 356 một hình chụp xuất sắc của loài này). Heckel (1840) lưu ý từng thấy hàng loạt daemon một đốm trong bộ sưu tập của Natterer. Gosse (1975) kiểm tra trên năm mươi mẫu vật, chủ yếu bắt nguồn từ Amazon, ghi chú rằng (Colombian) daemon hai đốm hiếm trong số mẫu vật của ông, nhưng không nói gì thêm. Thỉnh thoảng daemon bốn đốm cũng xuất hiện. Trong khi chúng đơn giản là những biến thể địa lý, hay một loài khác biệt cần được khảo sát thêm. Tương tự như jurupari, daemon cũng là loài đơn hình giới tính và đạt đến kích thước tương đương: Gosse (1975) ghi nhận một cá thể loài này với chiều dài chuẩn tối đa 29.6 cm (11.6 inch). Riêng tôi chưa từng thấy cá thể sống nào lớn cỡ đó trong hồ, nhưng điều này có thể liên quan đến sự mong manh của loài này trong môi trường nuôi dưỡng (xem ở dưới). Cả S. daemon và acuticeps đều đồng cư với jurupari và thường lẫn lộn trong các đợt hàng sau này, nhưng tầm phân bố của chúng chỉ giới hạn ở các nhánh Amazon với daemon ngang qua Casquiare vào Orinoco. Cả daemon lẫn acuticeps đều không được phát hiện ở cao nguyên Guiana. Tầm phân bố hạn chế này phản ánh sự hiếm hoi của chúng trên thị trường so với loài phổ biến jurupari. Satanoperca acuticeps (Heckel, 1840) Satanoperca acuticeps là loài geophagine cichlid thứ ba được mô tả bởi Heckel (1840) từ bộ sưu tập của Natterer và khác biệt ở dạng đầu sắc sảo của nó (acuticeps = đầu sắc) và ở dạng đốm lườn. Satanoperca acuticeps, trước năm 1983, là một trong những loài cichlid bị gọi sai nhiều nhất trong các tài liệu về cá cảnh. Xác định của Innes (1938) rằng acuticeps là một biến thể vây bụng dài của jurupari, từng được tin tưởng trong hơn 40 năm và một loạt hình ảnh mô tả nhiều biến thể jurupari từng được xuất bản khẳng định cách gọi sai này. Thậm chí Loiselle (1980) trong bài tổng duyệt xuất sắc và toàn diện của mình về các loài Satanoperca đăng trên số ban đầu của Fresh Water and Marine Aquarium Magazine [tạp chí FAMA], đã nhầm lẫn ở điểm này bằng cách gọi những hình acuticeps vốn được đặt đúng tên trong các văn bản ban đầu bằng tiếng Đức (chẳng hạn, Sterba 1966, Holly và đồng sự 1934) là daemon. Trong một bài viết trước đây (Leibel 1983a) tôi ôn lại những dữ liệu vốn không thể chối cãi, xác định cá trong Hình 5 là acuticeps đích thực. Với những ai còn hoài nghi, tôi đề nghị đọc lại bài viết dài nhưng thuyết phục này. Về hình thức, Satanoperca acuticeps được phân biệt với daemon qua việc thiếu đốm mắt gốc đuôi (có một đốm đen nhưng không có viền trắng) và sự hiện diện của ba đốm nữa phân bố đều từ mắt đến gốc đuôi. Tương tự như daemon, đuôi và vây hậu môn có màu đỏ huyết ở cá thể hoang và nhạt dần thành màu cam trong hồ nuôi; 5-6 tia mềm cuối cùng của vây lưng làm thành một tua vây dài, và lườn có những hàng vảy ánh kim song song – cách hàng – tạo thành những dải lấp lánh nổi bật trên mình cá. Khác với daemon và jurupari, dạng đầu thẳng và dốc, không cong, vây bụng rõ dài (Hình 6) như đề cập bởi Innes (1938) và, hình thái của môi dưới; “rời rạc” (ngắt quãng) ở acuticeps và “liền lạc” (liên tục) ở jurupari và daemon, là khác biệt rõ ràng (xem Leibel 1983a). Chìa khóa phân biệt ba loài được cung cấp ở Bảng 1. Bảng này kết hợp với các hình chụp những cá thể bình thường (Hình 1-6) và căng thẳng (Hình 7-9) cho phép định danh ba loài một cách chính xác trong hồ ở tiệm cá. Gosse (1975) thông báo chiều dài chuẩn tối đa 16 cm (6.2 inch) với acuticeps, nhưng tôi từng thấy những mẫu trong [bộ sưu tập] Thayer Collection (MCZ/Harvard) lớn hơn một chút so với jurupari và daemon trưởng thành. Tương tự như hai loài kia, acuticeps là loài đơn hình giới tính. Từ trên xuống dưới, từ Trái qua Phải: (1-T Hình 2) Satanoperca leucosticta cái. (1-P Hình 3) Satanoperca daemon dễ dàng được nhận diện nhờ đốm mắt nổi bật ở gốc đuôi. Khi cá trưởng thành, chóp vây lưng và vây bụng tiếp tục dài ra. Cá thể 12 cm SL chưa xác định giới tính từ Colombia. (2-T Hình 4) Satanoperca daemon hai đốm từ Amazon. (2-P Hình 5) Satanoperca acuticeps thể hiện bốn đốm đen. Lưu ý việc thiếu đốm mắt gốc đuôi. Cá thể 14 cm SL chưa xác định giới tính. (3-T Hình 6) Satanoperca acuticeps. Đốm đen được thể hiện theo hành vi. Hình này cho thấy Innes và những người khác mô tả acuticeps (một cách thiếu chính xác) như là jurupari với vây bụng dài. Hình của O'Malley. (3-P Hình 7) Trạng thái hoảng sợ của Satanoperca jurupari. (4-T Hình 8) Trạng thái hoảng sợ của Satanoperca daemon. Dạng lưới đen bên lườn là đặc điểm ở loài này. (4-P Hình 9) Trạng thái hoảng sợ của Satanoperca acuticeps. Ba đốm đen chuyển thành các sọc đứng, xen giữa bằng các sọc nửa. Hình của Wayne S. Leibel trừ phi nói khác đi. Bảng 1: Chìa khóa phân biệt juruparoidĐốm đen lớn với viền trắng liền lạc ở góc trên của gốc đuôi và lan qua đuôiS. daemon (hai đốm đen hay dải ngang, mẫu lưới đen khi hoảng sợ, vạch và đốm trắng ở phần mềm vây lưng, màu đỏ trên đuôi và vây hậu môn, hai sọc bạc song song kéo dài từ mép (jaw joint) đến mắt và từ mép đến nắp mang, 4-5 tia mềm vây lưng màu đen và kéo dài, và ít đốm trên nắp mang)Đốm đen không viền trắng liền lạc ở gốc đuôiĐốm đen nhỏ nằm ở góc trên của gốc đuôi và giới hạn ở gốc đuôi (đôi khi có viền bởi vảy bạc nhỏ) S. jurupari (mũi dài, nhiều đốm bạc trên đầu và nắp mang, chỉ một đến hai tia mềm vây lưng kéo dài, dải ngang khi hoảng sợ)Đốm gốc đuôi đen, to nằm ở giữa gốc đuôi, chỉ trên đường bên và giới hạn ở gốc đuôi S. acuticeps (ba đốm đen hay dải ngang, dạng đầu dốc, 7-8 sọc đứng khi hoảng sợ, vây ánh lục, 4-5 tia mềm vây lưng đen và kéo dài, vây bụng dài, lả lướt)Nuôi dưỡng cá hải hồ juruparoid Thông tin chung Những chiến lược hợp lý trong việc nuôi dưỡng Geophagine cichlid từng được trình bày bởi Loiselle (1980) và Leibel (1985b) và những độc giả quan tâm được hướng qua các nguồn này để có thêm thông tin. Ba loài juruparoid tốt nhất được tiếp cận như Apistogramma khổng lồ mà Satanoperca đúng là: các chi Geophagus, Gymnogeophagus và Apistogramma chia sẻ đặc điểm cung mang có thùy và được cho là có xuất xứ đơn ngành (nghĩa là cùng nhánh tiến hóa) từ một tổ tiên Aequidens. Trên thực tế, tôi phải thú nhận rằng mối quan tâm ban đầu của tôi ở Geophagine cichlid là sự khoái thác yêu sách của nhóm cichlid nhỏ luôn kén chọn này! Apistos, tôi e rằng, không hứng thú ăn trout chow, hay không chấp nhận sự xuề xòa về chất lượng nước. Như tôi phát hiện ra về sau, ngoài việc hơi bớt đòi hỏi về khẩu vị và nhu cầu về không gian hồ, việc nuôi dưỡng những loài Geophagines ấp miệng sơ khai này gần như tương tự với cichlid lùn (dwarf): sạch và ấm là hai nguyên tắc vàng trong việc chăm sóc juruparoid. Ưu tiên của tôi là duy trì một quần thể hỗn hợp với tiêu ngư (dither) không phải cichlid trong các hồ tương đối rộng (diện tích bề mặt: dài và rộng, thay vì cao) với cát mịn cho sở thích sục đáy của chúng. Và chúng sục thật! Không ngừng. Chúng chỉ dường như không (và có lẽ không) hạnh phúc trong hồ trống hay nền sỏi cỡ lớn. Chúng vẫn cố gắng sục vào loại sau, và hồi mới nuôi, tôi đã nhiều lần gỡ sỏi (pebble-ectomy) cho một con jurupari phiền muộn chỉ cố thực hiện công việc của mình trên đáy nền không phù hợp. Khỏi phải bàn, cây cỏ chẳng tồn tại được mấy chốc. Một giải pháp rõ ràng – trồng chậu và bảo vệ bằng một lớp sỏi to – cũng thường không tác dụng: bằng cách nào cá vẫn đào trốc rễ. Tôi chuộng một mớ lũa uốn lượn và một bụi Java Fern (Microsorium sp.) phủ bên trên. Bèo tấm (duckweed) và thủy cúc (water sprite) cản bớt ánh sáng bên trên và, trong trường hợp acuticeps, bèo tấm cũng bị xơi. Lũa cũng tiết ra một lượng vừa phải humic acid mà mấy con cá này thích. Tôi chuộng nuôi juruparoid của mình trong nước acid, mềm ở tầm 78-85 độ F bởi chúng xuất xứ từ vùng xích đạo ở Nam Mỹ. Phải giữ nước thật sạch! Cá này phản ứng với việc bảo trì nước lỏng lẻo bằng bệnh lở mút đường bên (neuromast pitting) (lủng đầu) và trong trường hợp của daemon và acuticeps, bệnh phù (bloating). Bệnh lở đầu (cephalic erosion) khi được phát hiện sớm thường phục hồi nhờ thay nước nhiều, thường xuyên kết hợp với nhiều loại thuốc phù hợp (xem ở dưới). Bệnh phù mỹ (Neotropical Bloat) là sát thủ lớn nhất của daemon mà tôi biết. Và nó có thể không liên quan trực tiếp đến điều kiện nước. Quá trình đau khổ là thấy trước và được chứng thực bởi một số tay chơi Geophagine (Rambo, Eckstein, 1984; Sifter 2:1). Một nhóm daemon rõ ràng mạnh khỏe sẽ bị đổ sụp như thể tình cờ và ít gây chú ý, từng con một. Thở gấp và phân sợi trắng là những triệu chứng gần – cá bỏ ăn và thường treo bất động gần đầu ra của bộ lọc. Nếu không được điều trị (và thông thường dù được điều trị) cá vẫn dần sưng phù, bụng nó chứa đầy chất lỏng, và chết dần sau nhiều tuần, điều rõ ràng là đau đớn cho cá cũng như cho chủ cá (Hình 10). Tôi từng có một quần thể daemon lớn từ nhiều nguồn gốc địa lý và nhà nhập khẩu bị sưng phù từng con một khi thả chung hồ với đám jurupari hỗn tạp tương tự, vốn vẫn ổn. Tôi đã xác định việc bảo trì nước lỏng lẻo là nguyên nhân gần (tôi không phải là thánh, tôi muốn được như vậy về điểm này) nếu đó không phải là kinh nghiệm để chia sẻ bởi các tay chơi tương đối tỉ mẩn hơn. Naladixic acid (xem ở dưới), nếu được áp dụng sớm, đôi khi có thể phục hồi bệnh phù nhẹ ở những con cá này. Chế độ bảo trì nước của tôi? Thay nước nhiều và thường xuyên kết hợp với bộ lọc công suất chậm. Cái đầu là dễ hiểu (50%-75% trực tiếp từ vòi), tuy nhiên cái sau dường như ngược đời. Cá juruparoid chuộng các dòng nước chảy chậm của rừng ngập nước vào sông Amazon. Một bộ lọc Power 600 cho hồ 210 lít (55 gallon) chẳng hợp lý. Chúng ta muốn bộ lọc cơ học hiệu quả, không phải thác Iguazu! Tôi thích dùng các bộ lọc công suất nhỏ (c. 450 lph: Aquatronics Power 1 hay Supreme PME) mà tôi treo ở hai đầu đối diện của hồ 210-265 lít (55-70 gallon) với đầu ra được chỉnh hướng. Vị trí này khuyến khích tuần hoàn chậm nhưng ổn định mà không thổi dạt cá vòng quanh. Mặc dù tôi chỉ sử dụng bông lọc (floss) và thực hiện lọc hóa học đơn giản nhờ thay nước; tôi chắc là than củi, PolyFilter hay Chemi-Pure không mang lại kết quả hữu ích. Tuy nhiên, với việc sục đáy không ngừng của cá này, bông lọc (và các ngăn lọc bổ sung) nhanh chóng bị nghẽn vì phân và rác, và phải được thay hàng tuần. Tôi cũng sục khí mạnh, nhằm giúp trao đổi ô-xy ở bề mặt. Điều khá quan trọng là chỉnh nhiệt độ cao và phần nào tôi chuộng tình trạng đông đúc. Nếu tôi có phòng và tiền, tôi sẽ làm hồ 1.8 mét 510 lít (6-foot 135 gallon) với các bộ lọc công suất lớn ở mỗi đầu như ở trên. Cho ăn Khẩu vị của cá này tương đối thoải mái và chúng phàm ăn một khi được tẩy ký sinh lúc phòng bệnh (prophylaxis) ban đầu. Bởi vì cá sục đáy, tôi chuộng thức ăn viên. Trong những năm học việc (làm công, không lương), trout chow [hiệu thức ăn viên] là nguyên liệu của tôi; nó bổ dưỡng và chìm! Nó cũng làm đục nước. Với công việc ổn định, những người bạn sục đáy của tôi và tôi đã tận hưởng một nâng cấp kịch tính trong tiêu chuẩn sống tập thể của chúng tôi: chúng tôi không xài trout chow nữa! Bây giờ tôi cung cấp đủ loại thức ăn viên từ viên tôm và gần đây nhất là viên tảo Spirulina và viên mầm lúa mì Hikari với thành công vang dội. Tép krill và thức ăn tấm chất lượng cao cũng tuyệt vời và được đớp ngay trên mặt nước, nhưng một lần nữa, tôi tin rằng điều quan trọng là khuyến khích cá này làm điều mà chúng đã được thiết kế cho: sục đáy (sifting). Loại thức ăn ít biết khác: các lát mướp tây trần (parboiled zucchini) mà hầu hết Geophagus và nhiều cichlid sẽ ăn từ giữa ra (vốn được giới thiệu bởi Eckstein, thư riêng). Tôi không cho ăn artemia đông lạnh bởi vì lớp vỏ (exoskeleton) vỡ vụn trong khi cấp đông dẫn đến việc thất thoát hầu hết khối lượng dinh dưỡng khi rã đông (Loiselle, thư riêng) do đó khiến cho loại thức ăn này tương đối đắt đỏ, nói chung là phí tiền. Tôi tiêu tiền đồ ăn đông lạnh vào trùng đỏ (ấu trùng muỗi lắc Chironomus) vốn không bị vỡ vụn khi cấp đông, và dùng thứ này như là thực phẩm biệt dưỡng. Khi vỗ béo cho cá Geophagines đẹp và yêu sách, bao gồm juruparoid, tôi cũng dựa vào trùn đất tươi sống mà tôi nuôi cho mục đích này (xem chi tiết về chăn nuôi chúng trong Piparo, 1984). Phòng bệnh Bởi vì hầu hết juruparoid được bày bán đều là cá hoang, dường như khôn ngoan khi thiết lập những lưu ý chung liên quan đến việc hợp thủy (acclimatization) cá hoang. Cá Satanoperca mới nhập thường ở tình trạng tệ hại: hốc hác, hay nhiễm ký sinh và cần ngay (và thường được hỗ trợ) một số thuốc TLC. Xuất xứ từ môi trường tương đối nóng thường xuyên, chúng nên được nuôi dưỡng tương tự ở khu vực mới: nhiệt độ 29-32 độ C (85-90 độ F) thường biến một con đang lay lắt thành kẻ sống sót sau vài ngày. Các cao thủ cá dĩa (afficionados) thường tác động đến đợt phòng bệnh cá hoang đầu tiên của mình bằng nhiệt độ trên 32 độ C: nhiều loài ký sinh dường như kém chịu đựng nhiệt độ so với vật chủ của chúng và sẽ chết sau một tuần điều trị. Tôi không phải là thuần túy nhân (purist), do đó tôi không do dự kết hợp nhiệt độ với thuốc trong những ngày đầu sau khi mua (xem ở dưới). Theo kinh nghiệm của tôi, juruparoid, nhất là daemon và acuticeps, là những nạn nhân thường xuyên của việc xuất khẩu – gắn liền với việc đổ bệnh. Chúng thường hốc hác, đờ đẫn, ăn mọi thứ (tươi sống hay thứ khác) và ỉa ra phân sợi trắng. Dù những triệu chứng này là hậu quả của Hexamitas, Spironucleus hay những đơn bào hay vi khuẩn độc hại khác qua hàng loạt tiếp xúc, thì, nói một cách thực tế, không ổn với tôi. Phương pháp ngốc nghếch của tôi: kháng sinh phổ rộng được sử dụng một cách có tính toán và thận trọng. Tôi phát hiện hai loại thuốc, Naladixic Acid (Naladin hay Tetrid của Aquatronic) hay Nalagram của Aquarium Pharmaceutical và/hay Dylox (kết hợp với nitrofurazone và chloramphenical và được bán như Paragon của Aquatronics) là các tác nhân phòng bệnh đặc biệt hữu dụng đối với cichlid châu Mỹ mới về (Lưu ý: không nên kết hợp chúng). Naladixic acid chứng tỏ là loại thuốc cá cảnh cực kỳ hữu dụng đối với việc điều trị hàng loạt bệnh riêng ở Geophagine như phù mỹ (Neotropical Bloat). Đó là loại kháng sinh gram-âm vốn nhanh chóng thấm qua mang vào máu và là lựa chọn để phòng bệnh cho Satanoperca. Nó đặc biệt hữu dụng trong việc phục hồi cá đang ỉa phân sợi trắng. Ngâm 24 giờ theo hướng dẫn thường là đủ. Dylox là loại thuốc xổ mạnh vốn diệt sán lá (fluke) và những loại giun ký sinh khác. Các cao thủ cá dĩa cho rằng Dylox làm tụ độc gan (hại gan) nhưng tôi chưa từng gặp bất kỳ vấn đề nào với nó. Tuy nhiên, nhà lai tạo cá dĩa tài năng, Walter Cecil ở Cambridge, Massachusetts, tránh thuốc này như hủi (plague) mà thay vào đó, sử dụng Piperazine Hydrochloride. Loại thuốc này có sẵn chỗ bác sĩ thú y dưới dạng viên (500 mg), tan trong lượng nước tối thiểu và ngấm vào thức ăn (khô hay tươi sống không-phải-trùn). Thuốc có tác dụng gây mê (anesthetic) đối với giun trong đường tiêu hóa: giun bong ra và bị thải qua đường phân. Việc tẩy giun tốt nhất được thực hiện trong hồ trống và cá được bắt ra ngay sau khi giun được thải (nghĩa là, việc soi phân - fecal smear - là hữu ích ở đây). Kinh nghiệm gần nhất của tôi với sán lá cho thấy rằng mồi thuốc (Medicated Food) của Tetra vốn pha nhiều loại thuốc xổ (antihelminthics) dưới dạng thức ăn, có thể hữu ích trong việc loại bỏ những loại ký sinh này. Điểm mấu chốt ở đây là ngon: hầu hết cá sẽ ăn mồi ngay lập tức (vốn là vấn đề với thức ăn ngâm-piperazine tự chế ở trên), và phải được cho ăn độc nhất [mồi này] trong mười ngày theo hướng dẫn. Một “bệnh” ở juruparoid tốt nhất nên để yên không chữa là ngoại ký sinh (ectoparasites) như mụn (pimple-like) vốn thường xuất hiện ở cá hoang. Đấy là loại giun dẹp (flatworm) vốn sử dụng cichlid và những loài cá khác như là vật chủ trung gian trong vòng đời của chúng. Chúng thường không gây hại cho vật chủ cá, mà qua đó nhiễm cho vật chủ chính của mình; chim ăn-cá, những con bị nhiễm loại ký sinh này từ thức ăn. Trừ phi có người tình cờ nuôi một bầy diệc (heron) trong phòng cá, bằng không “bệnh” sẽ chẳng lây nhiễm sang những con cichlid khác. Chẳng cần gì khác ngoài mũi kim để cạy chúng ra một cách hiệu quả, và tốt nhất cứ lờ chúng đi. Tốt hơn: nếu những con có tật này ảnh hưởng đến cảm xúc thẩm mỹ của bạn, thì tránh mua những con bị mụn như vậy ngay từ đầu. Lai tạo cá hải hồ juruparoid Cá hải hồ juruparoid là những con Geophagine sinh sản khó khăn và trở ngại nhất. Satanoperca jurupari từng được lai tạo khá thường xuyên và được gầy với số lượng trung bình ở vùng Viễn Đông. Bí quyết với cá này, bên cạnh vệ sinh, ấm áp và nuôi dưỡng tốt, là sự kiên nhẫn. Cá đạt mức trưởng thành ở 2.5 đến 3 năm tuổi. Nó cũng là loài cá không hung dữ, khá nhút nhát (ít nhất với loài khác) và có lẽ bị ức chế về mặt sinh sản nếu được nuôi chung với các loài cichlid khác. Tôi từng lai tạo hai cặp Satanoperca jurupari nhiều năm trước đây, và có cơ hội để chứng kiến – và chụp hình – sự kiện. Trong khi S. jurupari có thể phần nào thô bạo với đồng loại (conspecific), mỗi cặp đều hết sức hòa hợp với nhau. Hoạt động ghép cặp (courtship) bắt đầu với việc đảo đầu-đuôi và vỗ, phùng mang, và thúc hông (genital buttting) thường được khởi đầu bởi cá cái động dục. Ở một trong những cặp này, việc ghép cặp tiến xa đến mức khi mà cá cái, với vòi đẻ lòi ra, bơi bên cạnh và theo góc vuông với phối ngẫu (consort) của mình, rõ ràng cố lướt thử (dry run) trên lườn nó! Cá đực, dẫu nhìn chung kiên nhẫn, phản ứng bằng cú thúc hông như thể khích lệ nó. Ngay sau đó, cá cha mẹ bắt đầu kỳ cọ nhiều địa điểm đẻ trứng tiềm năng, sau cùng tập trung sự chú ý của chúng vào một mảnh đá phiến (Hình 11). Ngoài tự nhiên, Cichocki (1976) báo cáo rằng cá chuộng những giá thể di động (movable platform) để lưu giữ ổ trứng của mình. Trong một trường hợp: đế giày, trong trường hợp thứ hai: một khúc gỗ ngâm, và trường hợp thứ ba: một cái lá lớn, được chọn làm địa điểm đẻ trứng. Trong cả ba trường hợp, cặp cá kéo giá thể đẻ đến chỗ an toàn khi phát hiện cá lạ (creature in mask and fins) (xem Leibel, 1985a, cho thảo luận xa hơn về việc đẻ trứng trên giá thể di động ở cichlid châu Mỹ). Trong hồ nuôi, các giá thể cố định; thường là mặt đá nhẵn hay thậm chí là đá phiến thẳng đứng, được chấp nhận. Sau nhiều giờ kỳ cọ tỷ mẩn, những trái trứng đầu tiên được đẻ. Cá cái sẽ rải một hàng 12-20 trứng mỗi lần với cá đực theo sát đằng sau, thụ tinh cho trứng (Hình 12 & 13). Các hàng trứng giao nhau, nhanh chóng hình thành một mảng dày đặc với 200-300 trứng (Hình 14). Chúng có kích thước trung bình (2mm x 1mm), màu cam và dính với mặt đáy qua trục dài. Việc đẻ trứng hoàn tất trong vòng một giờ kể từ khi bắt đầu. Trong vòng một giờ sau khi đẻ, trứng được cá cha mẹ che phủ bằng một lớp cát mỏng. Thú vị thay, dù khi đẻ trên phiến đá gần thẳng đứng, cá cha mẹ vẫn cố che phủ chúng – một cách vô ích – bằng cát! (Vince Edmondson, thư riêng). Cả cha lẫn mẹ đều bảo vệ tổ trứng trong khoảng 36-48 giờ trước khi nhai để tách chúng khỏi vỏ và nhẹ nhàng ngậm chúng vào miệng để ấp nữa (Hình 15). Satanoperca jurupari là loài cha mẹ ấp miệng trễ (sơ khai) mà chúng hợp tác toàn diện trong việc ươm và nuôi cá bột. Chẳng bất thường nếu trứng dư nằm lại trên đáy nền – thể tích họng rõ ràng là có hạn. Chúng không nở dù được đem ấp trong lồng đặc biệt, cải tiến từ bộ lọc khí (Leibel 1984a) được làm cho mục đích này. Khác với trứng của các loài cichlid ấp miệng châu Phi, trứng Geophagine không thể chăm một cách đơn giản trong chén với sục khí, phó mặc cho bản chất mong manh của bào thai sau khi nở từ lớp vỏ bảo vệ (chorion) ở 36-48 giờ sau khi đẻ, ngay trước khi cha mẹ ngậm (uptake). Cá bột được phóng thích ở 48 giờ, 26.7 độ C (80 độ F) sau khi cha mẹ ngậm, hay 84-96 giờ sau khi đẻ. Chúng tiêu thụ hết noãn hoàng sau bốn ngày nữa, thời điểm mà chúng ăn ngấu nghiến artemia mới nở và thức ăn tự chế nghiền-nát. Cha mẹ tiếp tục bảo vệ cá bột trong 2-3 tuần sau khi phóng thích, che chở chúng trong khoang miệng lúc bị đe dọa. Khi cảnh báo, cá cha mẹ vào vị trí chúi đầu, chậm rãi lùi về phía sau với miệng mở. Cá bột phản ứng với hành vi này của cha mẹ bằng cách nhanh chóng tụ vào miệng và lặn sâu vào họng. Hành động rõ ràng là thiên hướng bẩm sinh (di truyền) (xem Leibel 1983b) vốn được mong đợi trước bất kỳ hành vi nào với giá trị sống còn quan trọng như vậy. Khi nguy hiểm trôi qua, cá bột được phóng thích bằng cách phun ra, hay chúng được trục xuất nhẹ nhàng qua mang để tiếp tục kiếm ăn dưới cặp mắt theo dõi của cha mẹ. Tốc độ tăng trưởng là trung bình và đạt kích thước 38-53 mm (1.5-2 inch) trong năm đầu. Cá bột nên được bắt ra trong vòng ba tuần sau khi phóng thích bằng không chúng sẽ bị cặp cá ăn thịt bởi chúng lại động dục (ripen) và chuẩn bị đẻ lứa khác. Satanoperca daemon và acuticeps chưa từng, theo hiểu biết của tôi, được lai tạo trong hồ nuôi, nhưng được mong đợi, như jurupari, sẽ là loài ấp miệng trễ (delayed biparental mouthbrooder). Rồi đây sẽ là một thách thức cho các tay chơi cichlid cuồng (Cichlidophile). S. daemon được bán thường xuyên nhưng, như lưu ý ở trên, nó đặc biệt mong manh và dễ mắc bệnh phù. S. acuticeps không được bán thường xuyên lắm, dường như hơi khó tính hơn daemon, nhưng không khó bằng jurupari. Cả hai ít nhút nhát và hung dữ hơn jurupari. Ấm áp, sạch sẽ và cho ăn đầy đủ, khỏi phải nói, là yêu cầu trước tiên trong việc lai tạo hai loài juruparoid này. Có lẽ cả kiên nhẫn nữa: chúng có thể chậm phát dục hay chậm hơn so với jurupari. Có lẽ cần lưu ý rằng sinh sản chỉ xảy ra ở nhiệt độ cao (35 độ C – 95 độ F) điều cũng đúng với nhiều loài cichlid hoang dã khó tính khác (chẳng hạn Acarichthys heckelii, Leibel 1984b). Hy vọng một vài người trong số các bạn sẽ chấp nhận thách thức và trở thành người đầu tiên lai tạo một trong số Geophagine cichlid yêu cầu cao này. Và thậm chí nếu bạn không thành công, niềm vui về thủy sinh và thẩm mỹ thu về khi nuôi dưỡng thành công một bầy của bất kỳ loài nào trong tam hùng juruparoid đến trưởng thành mạnh khỏe là đáng kể và là một phép thử thực sự cho trình độ thủy sinh của bạn. Từ trên xuống dưới, từ Trái qua Phải: (1-T Hình 10) Bệnh phù mỹ (Neotropical Bloat) là sát thủ lớn nhất của Satanoperca daemon nuôi hồ và nó rõ ràng liên quan đến căng thẳng (stress). Cái mặt đen thui của cá thể này, chẳng may có lẽ là hậu quả của việc nhiễm khuẩn cơ hội lên các dây thần kinh kiểm soát phân bố sắc tố. Cá bệnh rất nặng! Hình của Vince Edmondson. (1-P Hình 11) Cá đực Satanoperca leucosticta vệ sinh địa điểm sinh sản dự kiến trước khi thụ tinh trong khi cá cái đang quan sát. (2-T Hình 12) Cá cái đẻ một hàng 12-20 trứng mỗi đợt lướt. Trứng có kích thước trung bình và gắn với đáy nền bởi trục dài của chúng. (2-P Hình 13) Cá đực đợi để thụ tinh cho mỗi hàng trứng khi chúng được cá cái đẻ ra và hoán đổi [vị trí] với cá cái. (3-T Hình 14) Cá cái canh chừng ổ trứng dày đặc của mình với 200-300 trứng trong vòng 36-48 giờ trước khi ngậm chúng. Nhiều giờ sau khi tấm hình này được chụp, cá cha mẹ che phủ trứng, điều bình thường, bằng một lớp sỏi mịn. (3-P Hình 15) Ở đây, cá đực nhai những con cá bột mới nở cuối cùng để tách chúng ra khỏi vỏ. Cá cha mẹ cùng hợp tác ấp miệng thêm 48 giờ nữa trước khi phóng thích cá bột và tiếp tục cho chúng trú ẩn trong miệng khi gặp nguy hiểm trong nhiều tuần sau khi phóng thích. Hình của Wayne S. Leibel trừ phi nói khác đi. Tham khảo Axelrod, H., et. al, 1985. Dr. Axelrod's Atlas of Freshwater Fishes, TFH, Neptune, N.J. Cichocki, F., 1976. Cladistic History of Cichlid Fishes and Reproductive Strategies of the American Genera Acarichthys, Biotodoma, and Geophagus. Dissertation, Univ. Michigan. Gosse, J.P., 1975. Revision du Genre Geophagus (Pisces: Cichlidae). Mem. Acad. Roy. Sci. Outre Mer (Bruxelles) 19(3): 1-172. Heckel, J., 1840. Johann Natterers Flussfische Brasiliense. Ann. Mus. Wien 2: 325-471. HoHy, M., H. Meinken, and A. Rachow, 1934. Die Aquarienfische im Wort und Bild. Alhed Kernen Verlag, Stuttgart West Germany. Innes, W.T., 1938. Exotic Aquarium Fishes. Innes Publ. Co., Philadelphia. Leibel, W.S., 1983a. On the Identity of Geophagus acuticeps. Part 1, Buntbarsche Bulletin 94: 2-10, Part 2. Buntbarsche Bulletin 95: ll-19. Leibel, W.S., 1983b. Fry Escape and Buccal Sheltering Behaviors in Geophagine Mouthbrooders. Buntbarsche Bulletin 99: 2-7. Leibel, W.S., 1984a. A Sponge Filter Hatcher for the Artipcial Rearing of Geophagus. The Sifter 1(1): 12. Leibel, W.S., 1984b. Heckel's Threadfinned Acara. FAMA (Jan.), p. 15 et seq. Leibel, W.S., 1985a. Movable Plaiform Spawning in an 1ncreasing Number of Neotropical Cichlids. Buntbarsche Bulletin 107: 2-11. Leibel W.S., 1985b. Sifiings, Tips for the Maintenance of Neotropical Geophagine Cichlids. Part 1 Buntbarsche Bulletin 109: 3-8, Part 2 Buntbarsche Bulletin 110: 2-11. Loiselle, P.V., 1980. South American Eartheaters. Geophagus, the Genus and its Allies. FAMA (June), p. 23 et seq. Piparo, A.J., 1984. Culturing and Feeding Red Worms. FAMA (March), p. 5 et seq. Rambo, C. and G. Eckstein, 1984. Disease Roundtable: Neotropical Bloat. The Sifter 2(1): 15. ======================================= Khảo sát các loài cá hải hồ Lựa chọn cá hải hồ phù hợp với hồ nuôi của bạn Lai tạo Peruvian Satanoperca jurupari – Trường hợp ấp miệng liền Nuôi và lai tạo cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840) Cá hải hồ quỷ đốm Satanoperca daemon (Heckel, 1840) Satanoperca cf. leucosticta (Müller & Troschel) Cá quỷ mặt đốm Colombia Satanoperca cf. leucosticta “Amazon red”; cá quỷ ấp miệng liền từ Amazon Nuôi và lai tạo cá hải hồ đầu đỏ Geophagus steindachneri Heckel acara vây tua Acarichthys heckelii (Mueller & Troschel 1848) Gymnogeophagus balzanii Gymnogeophagus labiatus, 2001 Gymnogeophagus sp. “Rosario I”, loài mới từ Uruguay