Cá betta cầu vồng-sặc sỡ có lịch sử đầy màu sắc Bethany Waldrop Keiper - http://home.hiwaay.net/~keiper/bettastory.htm Khi màu sắc cầu vồng của một con betta đập vào mắt bạn, thật dễ quên đi lịch sử phong phú vốn mang lại cho các nhà thủy sinh những biến thể và hoa văn khác nhau vào ngày nay. Cá Đá Xiêm, Betta splendens, có một lịch sử đầy màu sắc như bộ vây tha thướt của nó vậy. Người Xiêm sở hữu một niềm đam mê với cá betta, chủ yếu vì bản năng chiến đấu của nó, trong nhiều thế kỷ. Cá được tuyển để đá được chọn theo thái độ gây hấn của chúng thay vì vẻ ngoài. Những chiến binh này -- cá thon mảnh, vây ngắn, nâu-lục dơ dáy -- chẳng giống chút nào với betta ngày nay. Vào 1840, Vua Xiêm tặng một loạt cá chọi danh giá của mình cho một người bạn của Theodor Cantor, và ông này, đến lượt mình, trao nó cho Cantor, vị bác sĩ ở Bengal Medical Service [Dịch Vụ Y Tế Bengal]. Mặc dù những con cá này sặc sỡ hơn đồng loại trước đây của mình, các màu sắc chủ đạo của chúng gồm lục ô-liu, đen và đỏ vẫn rất được ưa chuộng. Độ dài vây cũng thay đổi tùy cá thể. Vào 1849, Cantor xuất bản một bài viết về cá chọi mà ông gọi là Macropodus pugnax, var. Mãi cho đến 1909, C. Tate Regan tái kiểm tra điều này và thấy rằng pugnax vốn là một loài khác. Bởi vì cá không có tên khoa học, Regan đặt tên nó là Betta splendens, theo Gene Wolfsheimer, tác giả cuốn Enjoy the Fighting Fish of Siam [Thưởng Thức Cá Chọi Xiêm]. Các nhà thủy sinh Đức Arnold và Ahl giải thích rằng những chiến binh đầu tiên được giới thiệu vào Đức từ 1896. Họ mô tả những cá này được nhập khẩu như là cá vây-ngắn với đủ loại màu sắc. Loài này không vào Mỹ mãi đến 1910, theo Wolfsheimer. William T. Innes, nhà thủy sinh danh tiếng người Mỹ, giải thích rằng vào thuở ban đầu của thú chơi đó, Betta splendens có thân nâu vàng với chút màu nhẹ và một vài sọc ngang mờ nhạt, kích thước trung bình và đuôi tròn [cá hoang dã]. Mãi cho đến 1927 mà con cá chọi Xiêm, vây-thướt tha, màu-sặc sỡ đầu tiên mới đến Mỹ, theo Wolfsheimer. Những cá này thuộc chuyến hàng được gửi cho Frank Locke ở San Francisco. Ông ghi nhận hai biến thể thân sẫm và kem nhạt. Nghĩ rằng những cá thể thân-nhạt này là một loài mới, ông đặt tên chúng là Betta cambodia. Nhưng điều mau chóng trở nên rõ ràng rằng biến thể đặc biệt này chỉ là một trong những dạng màu nữa của Betta splendens. Dr. Hugh M. Smith, tác giả danh tiếng cuốn Fresh Water Fishes of Siam or Thailand [Cá Nước Ngọt của Xiêm hay Thái Lan], thực hiện quan sát này trên Cambodian betta. Ông tin rằng những con thân-nhạt này bắt nguồn từ Đông Dương Thuộc Pháp (French Indochina) vào 1900. Theo Smith, người Xiêm gọi chúng là “pla kat khmer” hay cá chọi Cambodian. Để hiểu được các màu sắc và hoa văn mà betta được cản để có, bạn phải hiểu về các lớp màu liên quan. David Johnson, trong thông tin của ông về lai tạo và nuôi dưỡng cá betta, giải thích rằng vàng là lớp màu ở dưới cùng, rồi đến đen, đỏ và sau cùng là xanh. Để thu được betta vàng, bạn phải có cá với gien non-red, non-blue và non-black. Có ba loại xanh: xanh thép, xanh dương và xanh lục, với xanh dương là dạng pha trộn của hai loại xanh kia. Betta Cambodian về cơ bản là con với thân một màu và vây màu khác trong khi butterfly betta là Cambodian với vây hai màu. Các nhà lai tạo phát triển màu gold từ bầy pha Cambodian-black. Một số cá bột F1 là xanh lục ánh kim với các vệt gold trên vây ngực. Cá bột F2 té ra xanh lục và Cambodian với ánh gold trên thân và vây. Qua nhiều thế hệ lai tạo, màu đỏ được loại bỏ và màu gold được cải thiện. Tutweiler phát hiện ra Tutweiler Butterfly, một dạng Cambodian với vây được phân chia giữa trắng và đỏ, nhưng dòng này không bao giờ được củng cố. Jay C. Niel ở Michigan phát hiện ra cá bướm (butterflies) mà chúng ta thấy ngày nay. Ông chủ định nuôi cá bột cambodian-đỏ-trắng, từ đó khai sinh ra butterfly betta. Butterfly đích thực phải có màu ở chóp các vây lẻ và không sát với thân. Cá cẩm thạch (marble) có nguồn gốc từ Nhà Tù Bang Indiana, nơi chúng được phát triển bởi Orville Gulley, một tù nhân. Walt Maurus, nhà sáng lập Bettas Unlimited, mua một số cá betta của Gulley. Gulley không theo đuổi marble betta, nhưng nhiều người vốn mua cá của ông tiếp tục giữ dòng. Dr. Gene Lucas, một chuyên gia, phát triển opaque white betta khoảng 1960. Những tính trạng khác từng được củng cố rồi mất và được tái phát hiện. Paul Kirtley tái tạo doubletail black vào những năm 80 và từ đó chúng luôn hiện diện. Việc củng cố các dòng màu và tính trạng doubletail phần lớn là nhờ International Betta Congress và các thành viên của nó. Paul Ogles, người làm việc với betta thuần dưỡng vây-dài trong nhiều năm trời, giải thích rằng sẽ an toàn khi nói rằng vàng, marble, đen và hầu hết doubletail còn tồn tại ngày nay bởi vì có các lớp triển lãm dành cho chúng ở IBC. Bộ vây tha thướt của Betta splendens mang lại cho chúng một ngoại hình khác biệt, không giống với các loài cá nhiệt đới khác. Vây ngực và vây bụng nằm ở phía trước hậu môn. Chúng sặc sỡ và dài, và bao gồm 5 tia. Vây lưng, nằm trên lưng cá betta, thường rất dài. Nếu betta là loại doubletail, hay mang gien doubletail, vây lưng sẽ rộng gấp đôi cá betta bình thường 6 tia. Gốc đuôi (caudal peduncle) là phần sau của thân cá nơi mà đuôi được nối vào. Trong trường hợp doubletail betta, đôi khi gốc đuôi rõ ràng bị phân tách gần nơi đuôi tự nối vào, như thể cá có hai đuôi riêng rẽ một cách đúng nghĩa, theo Terri Gianola, nhà điều hành Bettas WebRing trên World Wide Web. Đuôi ở Betta splendens đực nhìn chung rộng và tha thướt, thường rủ xuống đáy của vây hậu môn. Đuôi của doubletail được phân làm hai đuôi tách biệt đúng nghĩa. Nếu sự phân tách bắt đầu ở gốc đuôi, thì những cá này có hai đuôi tách biệt (separate) [khác đi là dính]. Vây hậu môn, nằm bên dưới cá, phía sau hậu môn, chạy dọc theo chiều dài từ hậu môn đến đuôi của cá. Nó bao gồm 25 tia. Những vây gần nhất với cặp mắt cảnh giác và đôi môi cong cớn ở mặt của betta đực là vài trong số những điều thông thường nhất. Những vây ngực này, nằm sau nắp mang ở hai bên mình cá, thường thiếu màu, trong khi những con betta khác có một phần hay màu đẹp ở vây ngực. Vây này phải có 12 tia. Cá betta không chỉ giới hạn ở loài splendens. Những loài khác nhau khác biệt về dạng thân, chiều dài vây và sự hung dữ. The Betta imbellis, hay “betta hiền lành” (peaceful) được xác định bởi Ladiges vào 1975, có vây ngắn nhưng vẫn thể hiện màu tươi tắn. Cá đực có thể được nuôi cùng nhau và sẽ cố gây gổ, nhưng để lại một chút hay không thiệt hại nào. Betta coccina vây-ngắn là loài cá nhút nhát, trong khi Betta brederi [Betta pugnax] là một loài ấp miệng bán-hung dữ. Betta pugnax đực cũng ấp trứng bằng miệng, và loài này có thể được nuôi theo cặp trong hồ cộng đồng. Betta splendens đực chăm trứng và cá non của mình trong một tổ bọt xinh đẹp ở trên mặt nước. Dẫu loài nào, thì Betta vẫn là anabantids [hiện là osphonemids], nghĩa là, chúng có khả năng thở không khí bằng việc sử dụng một bộ phận đặc biệt gọi là mê lộ (labyrinth). Tham khảo Gianola, Terri. Bettas and Spawning. http://members.aol.com/terrig2/bettas.htm, 1997. Johnson, David. The Betta FAQ: Breeding and Keeping Bettas. http://www.starpoint.net/dave/betfaq.html, 1996. Lucas, Gene A. Siamese Fighting Fish yearBOOK. Tropical Fish Hobbyist, Neptune, New Jersey. (No date listed) Marus, Walt. Bettas: A Complete Introduction. Tropical Fish Hobbyist, 1987. Ogles, Paul. Email interview. 1997. Wolfsheimer, Gene. Earl Schdeider, Editor. Enjoy the Fighting Fish From Siam. The Pet Library LTD, New York, New York. (No date available) Đăng vào Tháng Hai, 1998 Viết bởi Bethany Waldrop Keiper