Hùng kê quyền Hùng kê quyền là bài quyền mô phỏng các thế đánh của gà chọi, một trong 10 bài danh võ được Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam lựa chọn qua các kỳ hội nghị chuyên môn toàn quốc. Tương truyền, bài quyền này do Đông Định Vương Nguyễn Lữ - người em út trong nhóm Tây Sơn Tam Kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) - sáng tạo ra để nghĩa quân rèn tập trong giai đoạn khởi binh. Theo thời gian và sự suy vi của triều đại Tây Sơn, bài quyền được lưu truyền một cách bí mật và hạn chế trong một số dòng tộc chứ không truyền ra ngoài. Từ hội nghị võ cổ truyền năm 1989, lão võ sư Ngô Bông được thừa nhận là truyền nhân chính thức của Hùng kê quyền, người nắm trọng trách hướng dẫn và phát dương quang đại bài quyền này trên toàn quốc. Nguồn gốc Theo sách Võ nhân Bình Định của Quách Tấn - Quách Giao: "Nguyễn Lữ vốn người mảnh khảnh, tính nết hiền hòa, ưa thanh tịnh. Khác với hai anh, ông theo học văn nhiều hơn võ. Tuy nhiên, ông cũng đã học hết các môn võ và chuyên đề môn miên quyền”. Nguyễn Lữ được thầy giáo Hiến - tức Trương Văn Hiến, một bậc trượng phu văn võ song toàn, từ xứ Nghệ An lưu lạc vào đất An Thái, nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn, Bình Định - chân truyền cho môn này. Theo yêu cầu của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lúc bấy giờ, phải làm sao trong thời gian ngắn huấn luyện cho các nghĩa quân Tây Sơn tinh thông võ nghệ theo phương châm: “Yếu có thể đánh mạnh, thấp có thể đánh cao, nhỏ có thể đánh lớn, ít có thể đánh nhiều”. Và yêu cầu bức thiết đó đã khiến Nguyễn Lữ không thể thờ ơ. Chuyện kể rằng, khi 3 anh em nhà Tây Sơn bí mật chiêu mộ anh hùng hào kiệt, một lần nọ lúc xem 2 chú gà chọi nhau vào dịp Tết, trong đó có một con nhỏ hơn đối thủ nhưng biết vận dụng yếu thế “nhỏ con” của mình để triệt hạ đối phương. Bằng thiên tư võ thuật của mình, Nguyễn Lữ đã thị sát, nghiền ngẫm, nghiên cứu lối đá ào ạt tấn công của con gà lớn với cách chống đỡ của con gà nhỏ, vốn hay chui luồn, xỏ vỉa, lặn hụp, tránh né để thừa cơ phản công. Cuối cùng ông đã chắt lọc, sáng tạo ra bài quyền mang tên Hùng kê quyền. Ngay sau khi ra đời, Hùng kê quyền lập tức được các nghĩa quân Tây Sơn tập luyện và ứng dụng rộng rãi bởi tính hiệu quả của nó. Sự lợi hại của Hùng kê quyền đã được các anh hùng hào kiệt trong giới võ lâm đương thời nể phục. Tương truyền, một võ sư Thiếu Lâm muốn ẩn chứng uy lực của Hùng kê quyền đã tìm đến Tổ sư bài quyền này khích bác: Đến như hổ báo kia đã hùng chưa mà kê dám xưng hùng? Khi ấy Nguyễn Nhạc vốn đang chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà có rất nhiều hào kiệt, không muốn mất hòa khí đang gây dựng nên bảo em (Nguyễn Lữ) cố ý tránh né, nhưng vị võ sư nọ vẫn một mực muốn so tài. Cực chẳng đã, cuối cùng Nguyễn Lữ đành nhận lời giao đấu. Vào trận, trường quyền của vị võ sư như giông bão liên hồi phủ xuống nhưng Nguyễn Lữ vẫn cứ ung dung xuyên qua xuyên lại nhanh nhẹn trước một con gà lớn hung hãn nhưng chậm chạp. Suốt 1 canh giờ, quyền của vị võ sư không đụng được vào áo của Nguyễn Lữ. Vào khoảnh khắc khi đối thủ lộ sơ hở, Nguyễn Lữ, với một chiêu duy nhất, đã khiến đối phương té ngã. Đến lúc đó, kẻ thách đấu mới hoàn toàn tâm phục, khẩu phục.. Truyền nhân Lão võ sư Ngô Bông sinh ra ở thôn Điền Chánh, xã Nghĩa Điền, huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) trong một gia đình có truyền thống võ học, nghiệp võ của võ sư Ngô Bông trải qua lắm thăng trầm và biến cố thời cuộc. Lão võ sư bồi hồi nhớ lại rằng, năm lên một tuổi, hai cụ thân sinh bị giặc Pháp bắt đi đày, giết chết. Lâm cảnh mồ côi, ông sống nương nhờ vào bà ngoại. Chừng năm lên 6 tuổi, ông bắt đầu tập võ do những người thân trong gia đình bên ngoại truyền dạy. 20 tuổi, với niềm đam mê võ học, ông quyết chí tầm sư khắp xứ Trung - Nam mong được thỏa ước nguyện bình sanh. Lưu lạc trên đường học đạo suốt 30 năm, ông mới quay về lại quê nhà. “Người thầy mà tui theo học lâu nhất, nhiều kỷ niệm nhất là võ sư Bảo Truy Phong, biệt danh là “gấu già”. Lúc ấy nhà nghèo, không có tiền bạc gì, chỉ biết trả nghĩa bằng cách ngày thì làm lụng phụ giúp gia đình của thầy, đêm chí thú luyện tập công phu”. Các thế võ của bài Hùng kê quyền do lão võ sư Ngô Bông biểu diễn. Sau khi thành Gia Định thất thủ về tay Nguyễn Ánh, Đông Định Vương Nguyễn Lữ “mây ngàn hạc nội”, không rõ tung tích, bài Hùng kê quyền nhờ đâu mà vẫn còn lưu truyền cho hậu bối? Lão võ sư nói một cách bình thản như mọi điều đã ngấm sâu vào tâm khảm của mình: “Thời ông cố ngoại trên đường lưu lạc từ Huế vào đã tham gia nghĩa quân Tây Sơn, phò tướng Nguyễn Lữ. Theo lời kể của những thế hệ đi trước, các binh sĩ dưới trướng của Đông Định Vương Nguyễn Lữ đều được truyền dạy bài võ Hùng kê quyền để đối phó hữu hiệu với kẻ thù. Sau đời ông ngoại, các ông cậu trong nhà tiếp tục thụ giáo loại võ này. Và, ông dượng của tui là võ sư Mười Diệp vốn là truyền nhân của một người lính tin cẩn dưới trướng Nguyễn Lữ, tên là Lý Trường Xuân, được Nguyễn Lữ truyền lại toàn bộ những chiêu thức tuyệt kỹ của Hùng kê quyền”. Cùng thời với lão võ sư Ngô Bông, có rất nhiều võ sư tại Bình Định và Quảng Ngãi rất giỏi bài quyền này, trong đó đáng kể nhất là võ sư Sáu Nghê, võ sư Hồ Sắt (quê ở Phù Mỹ), võ sư Hồ Nguyệt (quê ở Tây Sơn), Hòa Thượng Thích Đại Long (quê ở Tuy Phước)… Nhưng tất cả đã mất vì tuổi cao, vì chiến tranh. Duy chỉ còn lại Ngô Bông cho đến nay. Năm 1989, võ sư Ngô Bông thực hiện bài quyền Hùng kê tại một giải đấu quốc gia và đạt giải cao. Đến năm 1993, tại Đại hội võ thuật của Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam, đã thống nhất lấy bài Hùng kê quyền đưa vào hệ thống thi đấu bắt buộc ở nội dung biểu diễn và võ sư Ngô Bông chịu trách nhiệm truyền dạy, hướng dẫn bài quyền này… "Hùng kê quyền là bài quyền mà tôi yêu thích nhất. Ngày xưa sư phụ của tôi kể rằng: Nguyễn Lữ rất thích bài quyền này, đến đời sư phụ tôi cũng thế. Bài quyền như có sức hút mãnh liệt mà hết thảy những ai đã được học nó đều rất mê. Riêng tôi tự thề với lòng rằng: trước khi nhắm mắt lìa đời, tôi phải đi vài đường của bài quyền Hùng kê rồi, nếu không làm được như thế tôi sẽ không nhắm mắt được". Lời thiệu của bài quyền phổ biến ngày nay, theo võ sư Ngô Bông không phải là bản gốc để lại từ đời xưa. Những năm chiến tranh lưu lạc, bài thiệu nguyên bản do ông cậu của võ sư Ngô Bông cất giấu trong hòm sắt đã bị lửa đạn thiêu cháy. Đến đời võ sư Ngô Bông, ông phải căn cứ trên những đường quyền và trí nhớ của mình để khôi phục lại. Tâm nguyện cuối đời của ông là sẽ cùng với người con trai của mình - võ sư Ngô Lâm phân định 48 thế của bài quyền Hùng kê, ghi lại bằng hình ảnh để lưu truyền cho đời sau. Những năm còn sung sức, lão võ sư Ngô Bông đã truyền thụ bí quyết Hùng kê quyền cho nhiều võ sinh khắp nơi tụ về thụ giáo. Về sau, họ đều trở thành những võ sư thành danh như: võ sư Thanh Long, Nguyễn Lê Hương... Bây giờ, dù tuổi cao sức yếu, nhưng trong khuôn viên ngôi nhà nhỏ của mình, ngày ngày lão võ sư vẫn đều đặn dạy võ thuật cho những đứa trẻ ở làng quê Điền Chánh và khắp các vùng phụ cận. Ông nói, việc tập luyện không chỉ truyền giữ lại những nét tinh hoa võ học mà điều quan trọng là nâng cao thể lực cho các cháu, giúp các cháu có đủ sức khỏe để học hành. Đặc điểm Nguyễn Lữ vốn người mảnh khảnh, yếu hơn các anh mình là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ. Tính ông hiền hòa, ưa thanh tịnh, thích giao du với các nhà sư Ấn Độ và Trung Quốc, thích học văn hơn học võ. Ông nhận thấy võ thuật Thiếu Lâm phần nhiều thiên về dương cương, có những điểm không phù hợp với thể chất người Việt Nam. Để học thông môn phái Thiếu Lâm phải mất hàng chục năm, trong khi yêu cầu cấp bách của nghĩa quân là tinh thông võ nghệ càng nhanh càng tốt. Nguyễn Lữ cũng say mê nghệ thuật chọi gà. Trong một dịp tết, ông quan sát đôi gà chọi: một con to lớn kềnh càng, dũng mãnh, mặt đỏ gay, các đòn nặng nề sát thủ và một con nhỏ bé mà linh hoạt. Nhưng con gà to lớn kia đã liên tục phải cúp đuôi bỏ chạy trước sức tấn công bền bỉ, liên tiếp, nhanh như chớp của con gà nhỏ. Từ đó ông nghiệm ra nguyên lý của nước mà con gà nhỏ đã áp dụng theo bản năng: miên viễn, bền bỉ, nhẹ nhàng nhưng dữ dội, có thể chọc phá bất cứ một sơ hở nhỏ nào. Ông đã sáng tạo ra bài Hùng kê quyền vừa phù hợp với sở học của bản thân, vừa phù hợp với thể chất người Việt nói chung, vừa thích ứng với nhu cầu cấp thiết của nghĩa quân Tây Sơn giai đoạn đó. Đặc tính của nước được áp dụng trong bài bằng những yếu lĩnh, nhằm đến mục tiêu: yếu có thể đánh mạnh, thấp có thể đánh cao, nhỏ có thể đánh lớn, ít có thể đánh nhiều, gần có thể đánh xa. Như những động tác dũng mãnh của con gà chọi nhỏ bé mà nhanh nhạy trước đối thủ, bài Hùng kê quyền sử dụng ngón tay trỏ để đâm (nhất dương chỉ) mô phỏng hình mỏ gà, và các ngón còn lại co vào như chiếc cựa gà. Thủ pháp độc đáo như vậy lại nhằm vào những mục tiêu hiểm của đối thủ, như các huyệt đạo, ngực, hầu v.v. Bộ pháp của bài hết sức linh hoạt, thần tốc, xoay chuyển một cách biến ảo đã hỗ trợ cho việc thi triển thủ pháp một cách kiến hiệu, khiến đối thủ luôn phải hứng chịu những đòn thế có tính sát thương cực cao. Võ sư Ngô Bông, trên Bình Định nguyệt san, đã nói về những điểm tinh túy của bài Hùng kê quyền: Các đòn đánh của bài quyền Hùng kê cực kỳ chuẩn xác và biến ảo. Cái thần thái của bài quyền là sử dụng sức mạnh của thủy (nước) để đánh đối phương. Nước mà chảy là mạnh lắm và không thể nào tránh né cho khỏi. Các đòn đánh của bài quyền Hùng kê cũng vậy. Nó đánh vây tứ bề, dùng ba đến bốn mũi giáp công chỉ nhằm đánh vào một điểm, đánh từ dưới thấp lên cao, từ trên cao phủ đầu xuống thấp. Vì uy lực của bài quyền này, hiện nay bài thường chỉ được truyền dạy cho môn đồ đã có trình độ nhất định, chẳng hạn như cấp huấn luyện viên. Lời thiệu Nguyên văn: Lưỡng kê giao nạp thí tranh hùng. Song túc tề phi trảo thượng xung. Trấn ải kim thương như bạch hổ. Thủ quan ngân kiếm tợ thanh long. Xuyên hầu độc tiễn tàng ư trác. Hồi thủ đơn câu thọ tự hung. Khiêu, tẩu, dược, trầm thiên sở tứ. Nhu, cương, cường, nhược tận kỳ trung. Dịch nghĩa Hai con gà chọi nhau để tranh hùng Hai chân cùng bay, móng chân đâm hất lên Trấn biên ải, cây thương vàng như cọp trắng Giữ cửa quan, lưỡi kiếm bạc tựa rồng xanh Mũi tên độc đâm vào hầu được cất giấu từ mỏ gà (mổ thóc) Quay đầu móc đâm vào ngực kẻ địch Chạy, nhảy lên, luồn, hụp xuống là thế trời cho Mềm, cứng, mạnh, yếu, tất cả đều trong bài quyền này. Dịch thơ (Việt Hà): Hai gà đối chọi quyết tranh hùng Đôi chân cùng bay móng hất tung Trấn ải, thương vàng như cọp trắng Giữ quan, kiếm bạc tựa rồng xanh Tên độc lút hầu ngầm nơi mỏ Ngoái đầu đâm ngực địch đến cùng Chạy, nhảy, luồn, hụp xoay tứ phía Mềm, cứng, yếu, mạnh ngầm ở trong. Diễn giải Câu 1: Lưỡng kê giao nạp thí tranh hùng (Hai con gà gặp nhau và bắt đầu thi tài cao thấp). Bao giờ cũng vậy, trước khi đá nhau, 2 con gà thường đi qua lại 1 vòng, quan sát, gườm nhau. Điều đó có nghĩa, người võ sĩ trước khi so tài với đối thủ phải dùng “nhãn pháp” quan sát đối phương thật kỹ để tìm hiểu trạng thái, tinh thần, điểm mạnh, yếu của đối phương… Câu 2: Song túc tề phi trảo thượng xung (Hai chân bay lên, móng chân đâm lên phía trên). Đây là điểm khác biệt so với quan niệm “túc bất ly địa” (chân không rời đất) của võ cổ truyền Bình Định. Để thực hiện được đòn tấn công với động tác song phi cả 2 chân về phía đối phương, người võ sĩ phải luyện tập công phu, toàn diện cả nhãn pháp, thân pháp, thủ pháp… Câu 3: Trấn ải kim thương như bạch hổ (Cây thương vàng trấn cửa ải tựa cọp trắng). Giống như gà chọi, người võ sĩ Tây Sơn luôn chú trọng đến việc phòng thủ, chống đỡ. Đầu, thân thể, tay chân đều là những bộ phận phòng thủ. Khi giao chiến, người võ sĩ phải luồn lách, né tránh, gạt đỡ ra sao cho thật linh hoạt. Để thực hiện được việc này, người võ sĩ phải rèn luyện khá toàn diện cả thân pháp, thủ pháp, nhãn pháp và nhất là chỉ pháp (phép dùng ngón tay). Trong động tác này, người võ sĩ không chỉ dùng thủ pháp để đỡ, gạt, né tránh đòn của đối phương, mà còn sử dụng cả 10 ngón tay như “cây thương vàng” để tấn công địch thủ. Câu 4: Thủ quan ngân kiếm tự thanh long (Ngọn kiếm bạc giữ cửa tựa rồng xanh). Quan sát con gà đang chọi ta sẽ thấy nó sử dụng đôi cánh thật lợi hại. Đôi cánh của nó không chỉ để giữ thăng bằng, mà còn quật vào cổ, vào mặt của địch thủ, thậm chí như một lưỡi kiếm sắc. Tương tự như vậy, đôi tay của người võ sĩ Tây Sơn không chỉ giữ thăng bằng cho cơ thể, mà còn để gạt, đỡ, chống trả và để chém, chặt, xỉa, tấn công đối phương. Những thế “kim kê thượng xí”, “kim kê triển dực”… chính là vận dụng từ thế của đôi cánh gà chọi. Câu 5: Xuyên hầu độc tiễn tàng ư trác (Mũi tên độc đâm vào cổ họng địch thủ tiềm ẩn từ cái mỏ gà). Đây là một đòn cực kỳ lợi hại mà võ Tây Sơn vận dụng từ thế của gà chọi. Quan sát những con gà chọi chiến, ta thấy nó thường sử dụng đòn đá móc yết hầu địch thủ. Võ Tây Sơn cũng thường chú trọng đòn đánh vào yết hầu để có thể hạ đo ván địch thủ nhanh nhất. Đáng lưu ý là câu “tàng ư trác” (nghĩa là giấu ở mỏ). Khi tay chân bị khóa, vô hiệu hóa, người võ sĩ Tây Sơn sẽ sử dụng cả miệng để cắn vào yết hầu địch thủ. Câu 6: Hồi thủ đơn câu thụ tự hung (Quay đầu lại phản công, đánh vào ngực địch thủ). Quan sát gà chọi ta thấy có con đang đá thì cắm cổ chạy, rồi lại quay lại phản đòn; có con lại cứ xoay quanh “xà quần”, rồi quay lại phản đòn. Và, khi con gà địch thủ mệt thì nó bắt đầu phản công tới tấp. Vận dụng thế của gà chọi, khi mới sáp trận người võ sĩ Tây Sơn cũng thường né tránh những đòn hiểm ác, mãnh liệt của đối phương một cách lanh lẹ, uyển chuyển; vừa đánh vừa di chuyển linh hoạt. Cho đến khi đối phương thấm mệt, người võ sĩ Tây Sơn mới ra đòn phản công và tấn công vào những chỗ yếu điểm, để hạ địch thủ. Câu 7: Thiểu, tẩu, dược, trầm, thiên sở tứ (Chạy, nhảy lên, thụt xuống là sở trường trời cho). Vận dụng thế này, người võ sĩ Tây Sơn rất chú trọng khi luyện tập thân pháp, bộ pháp, thủ pháp, cước pháp để có thể chạy nhanh, nhảy xa, luồn lách, né tránh… làm cho đối thủ hao tổn sức lực và cuối cùng là tấn công tiêu diệt. Câu thứ 8: Nhu cương cường nhược tận kỳ trung (Mềm, cứng, mạnh, yếu đều tập trung trong bài quyền này). Câu kết của bài thiệu Hùng kê quyền cũng chính là một trong những quan niệm cốt lõi của võ Tây Sơn. Đó là quan niệm về cứng - mềm, mạnh - yếu; trong nhu có cương, trong cương có nhu và nhu - cương hài hòa. Đó cũng chính là bài học lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh mà ông cha ta từ ngàn xưa đã đúc kết, vận dụng. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, giờ đây, cùng với nhiều tư liệu lịch sử, bài võ Hùng kê quyền cơ bản đã được khôi phục lại khá hoàn chỉnh được đưa vào chương trình hội thi thuộc hệ thống võ cổ truyền quốc gia. -------------------------------------------------- Tây-Sơn-tam-kiệt: Nguyễn-Lữ Tham khảo http://vi.wikipedia.org/wiki/Hùng_kê_quyền https://sites.google.com/site/thuvi...-bai-quoc-vo/cac-bai-quoc-vo/bai3-hungkequyen http://www.baobinhdinh.com.vn/566/2005/1/18454/ http://bee.net.vn/channel/1984/200912/Nguyen-Lu-sang-lap-Hung-Ke-quyen-nhu-the-nao-I-1731302/ http://vietbao.vn/Doi-song-Gia-dinh/Truyen-nhan-Hung-Ke-quyen/45166120/111/