Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Lịch sử cá hồng két

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá La Hán' bắt đầu bởi vnreddevil, 3/1/11.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Lịch sử cá hồng két
    Jian Zhi Chen - http://parrotcichlid.com/history
    Theo tạp chí AquaPets Magazine, số tháng 6, 2004. Hình ảnh của Trung tâm nghiên cứu lai tạo Khai Tâm (Kai Shin Fish Breeding Research Institute 開心繁殖研究中心), huyện Nghi Lan 宜蘭縣, Đài Loan. Dịch sang tiếng Anh bởi Bin Ziegler.

    Bài viết của tôi dựa trên quá trình lâu dài thu thập thông tin về lịch sử ra đời của cá hồng két từ các trại cá và trung tâm nghiên cứu địa phương ở Đài Loan.

    Cá hồng két xuất hiện vào đầu những năm 1990 (Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 81 đến 82). Tôi từng viết nhiều bài về phân loại cá lai tạp cho tạp chí AquaLife.

    Tôi ngạc nhiên khi thấy bài viết của mình được ngành công nghiệp cá cảnh hiện nay tham khảo. Tuy nhiên, các phân tích và so sánh của tôi rõ ràng đem lại những thách thức đối với một số độc giả bất đồng ý kiến. Tôi rất mong muốn độc giả đóng góp cho chủ đề thú vị về cá hồng két này.

    Lịch sử về cá hồng két bắt đầu từ những năm 1989 đến 1990 (Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 78 và 79). Với sự xuất hiện của bài viết mang tự đề “Loại cá lai tạp mới” của các tác giả Chen Yan Qing và Cai Jian, ngành công nghiệp cá cảnh bắt đầu chú ý đến loại cá nhân tạo (变種魚 biến chủng ngư) còn gọi là cá cải tiến (改良魚種 cải lương ngư chủng) hay cá lai tạp (雜交魚種 tạp giao ngư chủng). Tên gọi có vẻ khác lạ như nó phản ánh đúng quá trình lai tạo của những con cá lai tạp này. Hầu hết các nhà nghiên cứu lai tạo ở Đài Loan đều thích gọi loại cá này là “biến chủng ngư” tức cá lai tạp.

    [​IMG]
    Ông Vương Dục Thánh 王毓聖 đang giữ một con hồng két. Để biết thêm thông tin, hãy viếng thăm www.HappyBreed.com

    Qua nhiều năm trời thử nghiệm, các nhà nghiên cứu đã tìm ra những kỹ thuật lai tạo giữa Red Devil (Amphilophus citrinellus) với Redhead Cichlid (紫红火口 Paratheraps synspilus) ra thế hệ được gọi là Red Diamond (血鑽石 huyết toản thạch) và Red Precious Stone (血寶石 huyết bảo thạch).

    Khác biệt duy nhất giữa những kỹ thuật này nằm ở quy trình lựa chọn giới tính khi ghép cặp. Một số nhà lai tạo chọn cá đực Red Devil bắt cặp với cá cái Redhead Cichlid, số khác làm ngược lại.

    Ban đầu, vì số lượng cá hồng két còn ít, các tiệm cá không thể áp dụng bất kỳ tiêu chuẩn nào để phân loại dựa trên kích thước và hình dạng. Khi số lượng cá xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường, rốt cuộc các tiệm cá có thể phát triển tiêu chuẩn xếp loại và đánh giá áp dụng trên bốn nhóm cá hồng két có mặt trên thị trường cá cảnh.

    [​IMG]
    Hình ảnh tuyệt vời của một hồ đầy ắp hồng tài thần (Red Fortune God 紅財神) trưởng thành.

    [​IMG]
    Hồng tài thần (Red Fortune God 紅財神) trông rất hấp dẫn với màu sắc tươi tắn và đầu gù. Loại hồng két này không phải lúc nào cũng sinh sản được. Theo các trại cá, thậm chí nếu sinh sản được, cá con cũng không đạt giá trị thương mại. Do đó, rất nhiều nhà lai tạo đã từ bỏ việc nuôi dưỡng cá con của chúng và chuyển qua lai tạp giữa hồng tài thần Đài Loan với cá la hán (Flowerhorn 花羅漢) Đông Nam Á.

    Bảng dưới đây được trích từ một bài viết của tôi về cá hồng két trên tạp chí AquaLife, số phát hành vào tháng 6 năm 1980, nó cũng xuất hiện trên tạp chí AquaPet số 11. Nguyên tắc xếp loại và đánh giá của tôi được ngành công nghiệp cá cảnh Đài Loan ngày nay chấp nhận.

    Lưu ý: Chiều dài ở đây được tính từ miệng đến đuôi. Độ rộng thân được tính từ lưng đến bụng của cá hồng két. Những bài viết và tài liệu về Gold Severum (金刚鹦鹉 kim cương anh vũ) cũng xuất hiện trong thời kỳ này.

    [​IMG]

    [​IMG]
    Một ảnh nữa về cá hồng tài thần (紅財神 Red Fortune God).

    [​IMG]
    Cát mã lan hồng thiên bảo 噶瑪蘭紅元寶 có thân rộng và to, màu đỏ tươi, vây lưng và vây hậu môn dài quá đuôi. Sau 2 năm tuổi, cá đạt 1 kg.

    Những con thuộc loại siêu A và A được biết có thân rộng và to. Hai nhóm hồng két này trên thực tế là thời kỳ đầu của kim cương hồng két (Gold Severum 金刚鹦鹉 tức “kim cương anh vũ”!).

    Để tạo ra nhiều biến thể khác nhau, các nhà lai tạo đã nhập khẩu số lượng lớn cichlid Nam Mỹ để lai tạp với cá hồng két ở Đài Loan. Những loài được chọn lai tạo bao gồm Hypsophrys nicaraguensis (珍珠火口 trân châu hỏa khẩu), Rocio octofasciata (珍珠豹 trân châu báo), Cichlasoma festae (藍火口 lam hỏa khẩu), Thorichthys meeki (红肚火口 hồng ức hỏa khẩu), Heros severus (金菠蘿 kim ba la), Parachromis managuensis (淡水石斑 đạm thủy thạch ban), Parachromis dovii (道氏火口 đạo thị hỏa khẩu), Herichthys carpintis (金錢豹 kim tiền báo), Hypselecara temporalis (獅王 sư vương), Archocentrus centrarchus, Cryptoheros nigrofasciatus (九間波羅 thất gian ba la), Astronotus ocellatus var. (紅豬 hồng trư) và Uaru amphiacanthoides (黑雲 hắc vân).

    Kỹ thuật lai tạo bao gồm: ghép cặp tự nhiên và chủ động, thậm chí áp dụng cả kỹ thuật phòng thí nghiệm.

    Cá đực thường được chọn là Redhead Cichlid (紫红火口 tử hồng hoả khẩu Paratheraps synspilus), Red Devil và Herichthys carpintis (金錢豹 kim tiền báo). Thành công khi lai cá đực Red Devil với cá cái Red Parrot để tạo ra các thế hệ thứ hai, thứ ba hay thậm chí sau nữa. Kỹ thuật lai tạo này tạo ra loại cá kim cương hồng két như hiện tại (Gold Severum 金刚鹦鹉 kim cương anh vũ).

    Đôi khi, một vài con hồng két vô tình bị thương vì loài khác tấn công hay trục trặc trong quá trình nuôi dưỡng. Kết quả là chúng bị mất một phần thân thể chẳng hạn như ức, lưng và đuôi. Một số tên độc đáo được dùng để mô tả những cá thể này, chẳng hạn như hồng két sừng (獨角紅鹦鹉 độc giác hồng anh vũ) và hồng két đuôi tim (一颗心 nhất khỏa tâm). Vì lợi nhuận thu được trên những loại hồng két như vậy, một số nhà lai tạo bắt đầu sản xuất hàng loạt cá hồng két dị tật. Các nhà lai tạo ở miền Bắc và miền Nam Đài Loan áp dụng kỹ thuật này trong việc gia tăng số lượng hồng két dị tật, nhưng điều này bị nhiều người chơi cá cảnh phản đối vì làm giảm chất lượng hồng két, nhờ đó mà việc sản xuất hàng loạt được ngăn chặn.

    Tuy nhiên, phát hiện này khuyến khích các nhà lai tạo áp dụng một kỹ thuật khác để cải thiện màu sắc của những con hồng két vốn nhợt nhạt. Họ tiêm màu đỏ và tím vào cá hồng két giống. Kết quả là hồng két tím (purple parrot) được tạo ra và trở nên rất phổ biến trên thị trường cá cảnh. Vì lý do đó, một vài trại cá có khả năng lai tạo hồng két tím đã thế chỗ đa số trại lai tạo hồng két thường. Các ông Wang Guo Zhong và Li Ji Tai là một trong số những người tiên phong. Qua một thời gian thử nghiệm, một số nhà lai tạo đã phát hiện ra các kỹ thuật khác để tạo ra hồng két lục (green parrot), hồng két lam (blue parrot), hồng két cầu vồng (rainbow parrot) và candy parrot. Mặc dầu vẫn cần phải cải thiện thêm nhưng loại cá lai tạp mới đã biến tiệm cá trở thành một bảng màu vẽ. Loại cá lai tạp mới cũng trở thành một chủ đề bàn tán trong ngành công nghiệp cá cảnh ở Đài Loan.

    Các nhà lai tạo cũng tập trung vào chủ đề cá hồng két có thể sinh sản một cách tự nhiên hay không. Sau 5 năm nghiên cứu, họ phát hiện thấy cá hồng két đực ở Đài Loan không thể tạo ra tinh trùng đủ mạnh để thụ tinh cho cá hồng két cái. Trường hợp tệ hơn, nhiều con hồng két đực còn không tạo ra chút tinh trùng nào. Kỹ thuật lai tạo thành công nhất là lai xa giữa hồng két cái Đài Loan với Redhead Cichlid đực Nam Mỹ. Điều này chứng tỏ sự quan trọng trong việc lựa chọn cá đực có khả năng sinh sản để tạo ra bầy con mạnh khoẻ.

    [​IMG]
    Trung tâm nghiên cứu lai tạo Khai Tâm ở làng Tráng Vi 壯圍鄉, huyện Nghi Lan 宜蘭縣, Đài Loan. Giám đốc trung tâm, ông Vương Dục Thánh 王毓聖 và vợ.

    Tổ tiên của cá hồng két

    Redhead Cichlid
    [​IMG]

    Red Devil
    [​IMG]

    Kỹ thuật lai tạo này tạo ra một loại cá lai tạp mới với màu đỏ lấy từ cá mẹ và đốm đen, sọc lấy từ cá cha. Cá đực được chọn lai tạo thường là P. synspilus (紫红火口 tử hồng hoả khẩu) và H. carpintis (金錢豹 kim tiền báo). Kỹ thuật lai tạo thành công nhất là chọn cá đực Red Devil cho các thế hệ thứ hai, thứ ba và xa hơn nữa. Đấy là cách mà kim cương hồng két (金刚鹦鹉 kim cương anh vũ) được tạo ra.

    Lịch sử cá hồng két đã đạt đỉnh điểm trên thị trường cá cảnh. Từ một loại cá cảnh hiếm với số lượng có hạn và thiếu thông tin xếp loại, cá hồng két ngày nay đã trở thành loại cá cảnh phổ biến trên thị trường ở Đài Loan. Tuy nhiên, chúng vẫn rất độc đáo với màu sắc tươi tắn và hình dạng hấp dẫn. Qua so sánh, tôi xếp loại cá hồng két như sau:

    1. Hồng két (red parrot): kích thước trung bình và thân rộng.
    2. Hồng két tím (purple parrot): thân màu tím nhờ cá cha mẹ được chích màu tím trong mùa sinh sản. Màu tím sẽ phai dần và trở lại màu đỏ gốc của chúng.
    3. Hồng két đuôi tim (一颗心 nhất khỏa tâm): sống sót sau khi bị thương và mất đuôi. Chúng có thể lớn đến 20 cm dẫu không có đuôi.
    4. Kim cương hồng két (Gold Severum 金刚鹦鹉 kim cương anh vũ): loại hồng két cực to. Cá thể trưởng thành đạt đến 25 cm. Miệng luôn mở và cằm chìa ra phía trước.
    5. Cát mã lan hồng thiên bảo (噶瑪蘭紅元寶 Ge Ma Lan Red Fortune Coin): thân lớn và rộng hơn, màu đỏ tươi, chóp vây lưng và vây hậu môn dài hơn đuôi. Sau 2 năm tuổi, cá có thể nặng tới 1 kg.
    6. Cát mã lan hồng tài thần (噶瑪蘭紅財神 Ge Ma Lan Red Fortune God): thân lớn và rộng cùng với đầu gù tượng trưng cho tài phúc 福 ở Trung Hoa. Sau 2 năm tuổi, cá có thể đạt đến kích thước 28-30 cm.
    7. Hồng hoa la hán (紅花羅漢 Red Flowerhorn): bản tính tự nhiên rất hung dữ và nên phải nuôi riêng. Đặc điểm này tương tự như ở Red Devil.

    Lịch sử từng chứng kiến những thành tựu lớn lao trong kỹ thuật lai tạo cá hồng két. Từ thuở ban đầu với một số ít cá thể vốn không đủ để xếp loại, cho đến việc sản xuất hàng loạt cá hồng két kích thước cực lớn. Điều này khiến tôi luôn tự hỏi rằng liệu chúng ta có thể chứng kiến nhiều điều kỳ diệu hơn nữa về loại cá lai tạp tuyệt vời này hay không trong khi chúng vẫn đang tiếp tục chinh phục thế giới thuỷ sinh.

    Ghi chú:
    1. AquaLife: tạp chí thuỷ sinh ở Đài Loan, hiện đã ngưng xuất bản.
    2. Tác giả chứng kiến những loài cichlid được sử dụng mặc dù không đảm bảo các thế hệ lai kế tiếp sẽ thành công hay đạt được thành công thương mại theo quan điểm vào thời đó hay không. Nhiều dòng cá lai tạp đã bị lãng quên vì không đạt giá trị thương mại. Trong số cá bị lãng quên, có một dòng cá quay trở lại Đài Loan từ Đông Nam Á trong vài năm vừa qua, đó là hoa la hán.

    -------------------------------------------------------------------------

    Ghi chú (vnrd)
    1. Các tên khoa học mới nhất của cá đã được cập nhật.
    2. Red Devil (紅人面 hồng nhân diện) là Amphilophus labiatus hoặc cá lai Amphilophus labiatus x Amphilophus citrinellus, còn Midas (红魔鬼 hồng ma quỷ) là Amphilophus citrinellus. Căn cứ vào mức độ thông dụng, loại cá trên thực tế ở Đài Loan có lẽ là Red Devil lai Amphilophus labiatus x Amphilophus citrinellus.
    3. Redhead Cichlid Paratheraps synspilus còn có tên gọi khác là Quetzal, một loài vẹt (parrot) sặc sỡ ở Nam Mỹ. Đây có lẽ là nguồn gốc tên gọi cá “hồng két” (red parrot).
    4. Từ “anh vũ” có nhiều nghĩa: a) con vẹt, két; trong các truyện kiếm hiệp hay có con chim “anh vũ” biết nói tiếng người, đó chẳng qua là con vẹt mà thôi, b) ốc nautilus, c) cá hồng két và d) loài cá tiến vua.
    5. Cát mã lan 噶瑪蘭 là tên cũ của huyện Nghi Lan 宜蘭縣, Đài Loan được ông Vương Dục Thánh lấy đặt tên cho các dòng cá của mình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/12/17

Chia sẻ trang này