Tuyển chọn những cá bột Betta splendens tốt nhất – Thảo Luận Wilson Vianna - http://www.Bettas4all.nl/viewtopic.php?f=7&t=7768#.WbHG8sig-M8 Bài viết gốc được đăng trên tờ Mania de Bicho Magazine TÓM LƯỢC: Một số nhà lai tạo cá cảnh sớm tuyển chọn những cá bột to lớn trong bầy, tin rằng chúng có thể trở thành những cá thể đẹp nhất. Đôi khi, họ thậm chí loại hết số cá bột còn lại, ưu tiên cho việc nuôi những con to lớn được chọn. Bài viết này chứng tỏ rằng điều này có thể không phải là một quy trình đúng đắn bởi khoa học thực nghiệm cho thấy rằng những con cá bột nhỏ hơn có thể, trên thực tế, là những cá trưởng thành đẹp nhất trong tương lai, nếu chúng ta chăm sóc chúng đầy đủ. Một số nhà lai tạo Betta, cũng như những nhà lai tạo thú cưng khác, thích tuyển chọn những cá thể to lớn hơn, tin rằng chúng mang chất liệu di truyền tốt nhất và sẽ phù hợp để hình thành con giống tương lai của họ. Với tư tưởng này, họ thường không để ý đến những con khác hay thậm chí loại bỏ chúng. Tuy nhiên, chúng ta không thể bác bỏ khả năng này, kinh nghiệm lai tạo cá cảnh của tôi cho thấy rằng những con cá xuất sắc cũng có thể được phát hiện trong số những con phát triển chậm. Nhằm hỗ trợ cho quan điểm của mình, tôi có vài bình luận như sau: Hình 1 – Khác biệt về kích thước ở cá cùng bầy (35 ngày tuổi) 1 – Quản lý cá bột Cá của tôi được nuôi trong phòng ươm (hatchery) của mình, nơi tôi sử dụng hồ kiếng và hộp nhựa. Tùy vào số lượng cá bột, lứa cá được chia ra những hồ khác, mười ngày sau khi nở. Khi chúng đạt một tháng tuổi, đợt tuyển chọn đầu được thực hiện, bởi có thể thấy khác biệt rõ ràng về kích thước và nhiều cá bột lớn nhanh, trong khi số khác vẫn rất nhỏ, cho chúng ta ấn tượng rằng chúng sẽ không lớn. Do đó, những con lớn nhất được dời qua các hồ nuôi thúc (grow out). Vài ngày sau, số còn lại bắt đầu phát triển nhanh hơn và khác biệt mới về kích thước bắt đầu hiện rõ. Ở bốn-mươi-lăm ngày tuổi sau khi nở, đợt tuyển chọn thứ hai được thực hiện và những cá bột lớn nhất được dời qua các hồ nuôi thúc trong khi số cá còn lại vẫn ở hồ ép (spawning), nơi chúng mà chúng thể hiện sự phát triển còn tốt hơn so với các nhóm trước vì không gian rộng rãi, nồng độ ô-xy hòa tan cao hơn, được cho ăn nhiều hơn và môi trường ít căng thẳng hơn. Ở sáu-mươi-ngày sau khi nở, đợt đánh giá mới được thực hiện và quy trình tương tự được lặp lại sau mỗi 15 ngày cho đến khi toàn bộ bầy cá được chuyển sang các hồ nuôi thúc. Hình 2 – Cá bột 25 ngày tuổi Khi cá đực bắt đầu đá nhau trong các hồ nuôi thúc, chúng được chuyển sang lọ riêng. Mọi nhóm đều có thể cung cấp cá đẹp và xấu bất kể kích thước của chúng, với vây lớn và nhỏ, màu sắc nổi bật hay nhợt nhạt. Tôi từng trải qua vài trường hợp, khi những con bé xíu được tuyển chọn sau cùng đó, vốn phát triển chậm và biến thành cá “đầu dòng” và được tuyển chọn cho chương trình lai tạo của mình. Hình 3 – 28 ngày tuổi. Một số nhà lai tạo cho rằng cá được tuyển chọn từ sớm (early stage) mang những đặc điểm hình thái mong đợi, chẳng hạn đuôi mở, độ rộng gốc đuôi, màu sắc v.v. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, tùy vào loài và/hay dòng cá, những đặc điểm này chỉ xuất hiện khi cá đạt nhiều tháng tuổi; chẳng hạn, ở dòng cá super red của tôi, hầu hết cá cái chỉ lên màu đầy đủ sau bốn hay năm tháng tuổi. Trước tuổi này, chúng trông như cá Cambodian. Điều quan trọng cần lưu ý rằng điều kiện chiếu sáng có ảnh hưởng đáng kể ở trường hợp đó, khi cá được nuôi trong [môi trường] phơi sáng có xu hướng lên màu nhanh hơn những con vốn không được nuôi trong cùng điều kiện. Cũng cần lưu ý rằng độ mở/rộng đuôi tối đa (full caudal opening/width) ở những dòng nhất định, chỉ có thể được quan sát đầy đủ khi cá đạt nhiều tháng tuổi. Chẳng hạn, ở dòng white opaque mà tôi phát triển, hầu hết cá chỉ thể hiện độ mở đuôi tối đa sau năm tháng tuổi, đặc biệt là cá cái. 2. Tại sao một số cá non lớn nhanh hơn nhiều so với số khác, và trong một số trường hợp, những con lớn nhất có hành vi ăn thịt đồng loại? Chúng ta phải cân nhắc rằng cá Betta cái có thể đẻ từ một trăm đến khoảng năm trăm trứng, mặc dù trong một số trường hợp ngoại lệ, con số này có thể vượt quá một ngàn trứng. Một khi trứng được cá cái đẻ và cá đực thụ tinh, quá trình phát triển của bào thai lập tức bắt đầu. Cạnh tranh sinh tồn bắt đầu thậm chí từ trước khi trứng chạm đáy hồ, bởi vì nó đã được thụ tinh sẵn. Cá cái có thể mất nhiều giờ để đẻ trứng và những trứng được thụ tinh đầu tiên thì sẽ nở và trở thành cá bột đầu tiên. Lượt cá bột nở đầu tiên sẽ bắt đầu ăn đầu tiên và do đó phát triển đầu tiên. Chúng ta có thể giả thiết rằng khác biệt về thời gian giữa các lượt đẻ có thể mang ý nghĩa khác biệt giữa việc sống sót hay trở thành thức ăn của anh em chúng; trở thành cá thể đẹp hay cá thể xấu. Một khía cạnh sinh học nữa để cân nhắc là thực tế rằng trứng cá Betta, khi kiểm tra dưới kính hiển vi, không có kích thước giống hệt nhau (xem hình 4 – trứng Betta). Sự khác biệt về kích thước có thể chỉ ra rằng noãn hoàng (yolk) của chúng không có cùng thể tích và rằng cá sẽ không được nở ra với cùng kích thước (xem hình 3). Khác biệt về kích thước là rất đáng kể trong cuộc đua sinh tồn. Cá lớn hơn có miệng to hơn và có khả năng ăn artemia mới nở hay trùn cám (microworm). Chúng ta có thể giả thiết rằng một cái miệng lớn hơn là điều kiện chủ chốt giữa sống sót hay trở thành thức ăn, để trở thành cá thể đẹp hay cá thể bình thường. Hình 5 – Khác biệt về thể tích noãn hoàng của trứng cá Theo như trên, những con nở đầu tiên hay những con có trữ lượng noãn hoàng lớn hơn có thể có cơ hội sống sót tốt hơn, nhưng những cá thể này có phải là chất liệu di truyền tốt nhất để nêu bật kiểu hình mà chúng ta mong muốn? Điều quan trọng cần lưu ý rằng hầu hết những đặc điểm mà chúng ta yêu chuộng ở cá cảnh không nhất thiết là thuận lợi nhất ngoài tự nhiên. 3. Vậy chúng ta nên tuyển chọn cá thể làm giống của mình như thế nào? Những tiêu chuẩn tuyển chọn dựa trên một đặc điểm sinh học đơn lẻ chẳng hạn như sự phát triển sớm (precocity) hay kích thước có thể thu được kết quả là cá ngoại lệ, tuy nhiên nó không đảm bảo những đặc điểm kiểu hình khác mà chúng ta muốn. Việc chọn cá với gốc vây lưng lớn hơn, nhiều tia đuôi hơn v.v. đòi hỏi chúng ta phải chọn cá sở hữu những kiểu gien thuận lợi vốn có thể ghi dấu trong DNA của những cá bột đầu tiên và lớn nhất cũng như ở chuỗi gien của những con nhỏ hơn, vốn chưa phát triển đầu tiên bởi những vấn đề khắc chế sinh học hay phi-sinh học, chẳng hạn qua tương tác tiêu cực với cá cùng bầy lớn hơn hay với môi trường. 4. Một chút tò mò, có đáng bình luận tại sao cá Betta cái có thể đẻ quá nhiều trứng? Trong phát triển tiến hóa của sinh vật, một số loài chịu tác động của biến đổi địa chất, những thích nghi tiến hóa khiến chúng sản xuất ra số lượng trứng thật lớn và nhiều cá con, trong khi số khác tiến hóa để sản xuất ít trứng hay cá con hơn. Theo giả thuyết Darwin, những loài vốn tạo ra ít trứng hay lứa con, phát triển vào cùng thời điểm mà hình thức chăm sóc con (parental care) được chắt chiu hơn nhằm giữ tỷ lệ [sống sót] của bầy con cao hơn. Mặt khác, những loài vốn có xu hướng tạo ra nhiều con, đã không phát triển kỹ năng chăm sóc con, chỉ giữ lại một số ít của bầy con và do đó, qua chọn lọc tự nhiên, chỉ những con mạnh nhất sống sót. Ở trường hợp sau, hầu hết cá bột sinh ra đều trở thành thức ăn cho bầy cá khác, và phục vụ như là nguồn protein hay yếu tố dự trữ của cộng đồng hay loài đó. Tôi đặc biệt tin tưởng rằng cá Betta là một ví dụ của trường hợp sau. 5. Vậy phương pháp tuyển chọn những cá thể đầu tiên vốn nổi bật trong bầy bắt nguồn từ đâu? Phương pháp tách những cá thể lớn hơn trong một bầy cá, và chọn chúng để dùng làm cá giống tương lai (future arrays), thường được áp dụng khi mối quan tâm chính là tạo ra những cá thể với đặc điểm mong đợi là trọng lượng, hay kích thước tốt v.v. tuy nhiên, những công ty chăn nuôi ở cấp độ thương mại áp dụng các quy trình đánh giá di truyền (dựa trên đánh dấu phân tử) để tuyển chọn con giống của mình, điều khiến cho phương pháp tuyển chọn bằng mắt trở nên hoàn toàn lỗi thời ngoại trừ những nhà sản xuất vốn không có kiến thức kỹ thuật thích hợp hay không tiếp cận công nghệ hiện đại. 6. Vậy đâu là phương pháp tốt nhất để tuyển chọn và đánh giá cá bột của chúng ta? Như chúng ta đều biết, những yếu tố chính để thu được cá chất lượng đều liên quan trực tiếp đến nguồn nước và thức ăn. Nước phải có chất lượng tuyệt vời, điều này đồng nghĩa với sự vắng mặt hoàn toàn của ba hợp chất ni-tơ: nitrite, nitrate và ammonia; nhiệt độ và các thông số hóa-lý cũng phải phù hợp với loài cá mà bạn nuôi. Tôi tin rằng chất lượng nước thậm chí còn quan trọng hơn cả thức ăn trong việc lai tạo cá bởi vì cá có thể tăng trưởng với lượng thức ăn tối thiểu, nếu chúng có nước sạch. Mặt khác, khi chất lượng nước không tốt thì cá sẽ đèo đẹt bất kể thức ăn của chúng tốt như thế nào. Tôi đề nghị việc phân tách cá bột hiệu quả, chẳng hạn bắt đầu vào ngày thứ mười sau khi nở khi chúng có thể được tách thành nhiều nhóm. Nguyên tắc là: mật độ cá nhỏ hơn (cá trên lít) thì chúng sẽ phát triển tốt hơn. Cá bột, vốn được tách thành những nhóm nhỏ, sẽ có những giai đoạn phát triển khác nhau và việc phân loại kích thước thường xuyên là cần thiết để giữ nhóm được đồng đều. Nhờ vậy, chúng ta có khả năng đánh giá cá của mình và tuyển chọn những cá thể vốn mang những đặc điểm kiểu hình mà chúng ta muốn, mà không loại bỏ những con vốn ban đầu mất nhiều thời gian hơn để phát triển. Với mục đích thử nghiệm, tôi đề nghị các bạn dời cá bột nhỏ hơn vào các lọ ¼ lít (quarter) và đặt chúng vào hồ nuôi thúc như ở dưới. Tôi chắc rằng các bạn sẽ rất ngạc nhiên với sự tăng trưởng của chúng (Xem Hình 6 – chọn nuôi riêng 5 cá bột nhỏ hơn). Ý Kiến Sau Cùng Tôi đưa vào bài này các quan sát của mình về việc lai tạo cá Betta mà nó đã cho tôi những kết quả ngoại lệ. Những con Betta xinh đẹp được cản trong phòng ươm của tôi có kích thước tuyệt vời (ở trên là những con hiện đang xuất hiện ngoài thị trường), tuy nhiên những nhà lai tạo khác có thể có quan điểm riêng của họ, và ưu tiên cho phương pháp lai tạo và tuyển chọn cá của họ với mức độ thành công to lớn. Do vậy, tôi mong muốn giữ chủ đề này trong tầm thảo luận, để những nhà lai tạo khác nêu ý kiến như là một cách nhằm đóng góp vào sự phát triển trong việc lai tạo loài cá kỳ diệu này. Wilson Vianna wovianna@oi.com.br Graduate in Biological Sciences UNISUAM / RJ, graduated in business administration from UNISUAM / RJ, Post - Grad. in Marine Biology by UNISUAM / RJ. Author of scientific papers by CNPq - National Council for Scientific and Technological Development, Head of Fish Hatchery Vianna (Mage / RJ), public relations and article writer of Mania de Bicho Magazine (RJ). Manager of the Center for Tropical Aquarium Studies - CEA, a member of the scientific research team “Aquisuam”.
Bài viết này em cũng đã từng đọc trên 1 website viết bằng tiếng anh.Nhưng đúng là đọc bằng tiếng việt dễ hiểu hơn nhiều Tks anh evil nhiều
Nuôi cá tới khi lớn thường có wan điểm, cá phát triển hơn những con còn lại là những con tốt, con nào fát triển chậm là những con yếu kém............jờ mới bít con yếu kém kia còn có khả năng hơn những con to lớn trước kia......
Bài viết rất hữu ích cho người chưa biết nuôi cá như tôi. Trên diễn đàn trông cá nào cũng đẹp, cá nào cũng muốn nuôi. Rốt cuộc 3-4 tháng nay (từ tháng 9/2010) chẳng biết lựa giống nào mà nuôi. Cám ơn đã cho cái nhìn tổng quát.