Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Aseel trong nghiên cứu miễn dịch và thuốc bổ (Jack Holland)

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - gà' bắt đầu bởi vnreddevil, 8/7/15.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Ty thể và Phốt-pho
    (Aseel trong nghiên cứu miễn dịch và thuốc bổ)

    Jack Holland (The Gamecock, 8-9/1993) - http://asilclub.spruz.com

    Tôi đọc say mê bài viết về ty thể (mitochondria), “Tại Sao Gà Mái Quyền Lực Hơn Gà Trống“ của tiến sĩ Donald P. Hollis. Ý kiến của ông ở phần C: ty thể và sự co cơ nên được tái phát biểu. Có lẽ nó nên được phát biểu trong từng số của tờ The Gamecock trong vòng 40 năm tới, bởi bất kỳ đề cập nào về ty thể hay phốt-pho trong bất kì bài biệt dưỡng hoặc ấn bản nào mà tôi từng đọc trong 40 năm qua đều cẩu thả.

    Tiến sĩ Hollis phát biểu: “Ty thể từng được coi là “nguồn năng lượng” của tế bào bởi nhờ quá trình Oxydative phosphorylation của thực phẩm, mà nó tạo ra ATP để vận hành mọi chức năng tế bào bao gồm sự co cơ“.

    Nền tảng lý luận của tiến sĩ Hollis đó là chỉ gà mái mới có thể chuyển giao ưu thế của ty thể cho hậu duệ của mình, bởi về bản chất nó là đơn bào (bacterial) và bắt nguồn từ chính trứng – chứ không phải tinh trùng.

    Tôi đồng ý với tiến sĩ Hollis rằng gà mái quan trọng hơn gà trống trong việc thiết lập và duy trì một dòng gà. Những con Aseel tốt nhất mà tôi từng nuôi xuất phát từ một mái và trống con của nó từ hơn 60 năm trước. Người lai tạo ra chúng đã tự mình chứng tỏ, hiển nhiên, là một trong những nhà lai tạo hàng đầu với chiến kê thắng trận của mọi thời [ám chỉ Bobby Boles]. Nền tảng chương trình [lai tạo] của ông là “dòng Aseel cũ” này và một bầy kiểu Black Irish [ô], cũng truy theo dòng mái [tức bổn mái]. Nhà lai tạo này có lần bảo tôi rằng “một chiến kê chỉ chứng tỏ mái mẹ của nó mà thôi“.

    Các nhà lai tạo lão thành ở Ấn Độ nói rằng cách tốt nhất để cải thiện một dòng là lấy mái từ một dòng Aseel tốt hơn. Jim Gates quá cố với dòng “House of Gates” Real McCoy Aseel bảo tôi rằng, ông có thể bán trống hằng năm cho ai đó cản về [breed back, tức lai dựa], nhưng chừng nào mà ông không bán mái, thì họ sẽ không bao giờ sở hữu những phẩm chất quan trọng như ở dòng thuần. Những trường hợp riêng biệt này rõ ràng có xu hướng chứng minh cho lý lẽ của tiến sĩ Hollis.

    Dòng gà Aseel tốt nhất của tôi truy ngược về một mái McCoy Aseel thuộc dòng gà của nhà lai tạo California mà tôi lấy từ những năm 60 và cản vào dòng McCoy Aseel điều ngực vẹo (crooked-breasted) của tôi lấy từ Dr. Barrick vào những năm 50. Sau này, tôi bổ sung máu mới từ một cặp Aseel của Les Melville trong cùng một dòng trống và cản ngược về dòng trống và dòng mái [McCoy Aseel] cũng như dòng Melville thuần cho ra ba dòng riêng biệt mới. Cho tới nay, những cá thể tốt nhất của tôi từ hàng loạt bầy lai Aseel mỗi năm trong mười năm qua dường như đến từ những bầy lần theo “đuôi mái” đến dòng gà cũ của tôi, các mái vào những năm 50 và 60, dẫu cản ngược về các dòng trống Melville-McCoy hay cản ngược về dòng mái. Bởi sự phát triển cơ bắp và phản ứng “chớp giật” (snap) là các tiêu chuẩn chính đối với tôi trong việc tuyển chọn gà Aseel, nghiên cứu và kinh nghiệm lai tạo của tôi chứng minh cho lý lẽ của tiến sĩ Hollis.

    Đứng thứ hai sau bầy pha Melville trong việc tạo ra Aseel giống tuyển cho tôi là Cobra Aseel. Tôi săn lùng con tốt nhất có thể bởi vì trống Cobra gốc là một con California McCoy Aseel dòng cũ, đã đề cập ở trên, từ cùng dòng với mái những năm 1960 của tôi.

    Vào năm 1985, Bud Moffit và tôi mua tất cả gà Cobra của Ralph Bridges, kể cả một trống nọc Bill Kitaneo 8-tuổi và mái và hai mái nhạn. Bởi tôi được biết rằng những con này có cả Andrew McSweet và Bombay Aseel trong huyết thống (make up) của chúng nhưng nhiều nhất vẫn là máu Cobra cũ. Những con này có ngực mảnh và ngoại hình “Mỹ” hơn là những dòng Aseel khác, nhưng sở hữu tư duy và lối đá đặc trưng Aseel. Trong các bầy pha thử nghiệm giữa những dòng Aseel cũ của tôi, kiểu-thân của trống con ngả theo mái [mẹ] dùng cho bầy pha, trong khi lối đá (style) đến từ cả hai bên. Một lần nữa, những trống tốt nhất của tôi đến từ [bầy pha] giữa trống Cobra với các dòng mái cũ của tôi.

    Trong khi lý luận của tiến sĩ Hollis cho rằng số lượng ty thể ở gà trống đến từ dòng mái và rằng nó liên quan đến loại cơ và hoạt động, nghiên cứu mà tôi từng tham gia liên quan nhiều hơn đến chất lượng của ty thể hiện hữu (cụ thể hơn, làm thế nào để vận dụng tối đa ty thể hiện hữu trong quan hệ với chức năng về chuyển giao năng lượng và phản xạ khớp thần kinh-cơ ). Chất “xúc tác” của quan hệ hỗ tương này là phốt-pho.

    Nghiên cứu của tôi trong việc phát triển thuốc bổ động vật – gia súc và gia cầm – theo đó hàm lượng phốt-pho trong quan hệ với toàn bộ khẩu phần là vô cùng quan trọng. Chúng tôi phát hiện rằng mọi khoáng chất khác và vitamin, cũng như protein [đạm] và dưỡng chất sinh năng phụ thuộc vào cả chất lượng lẫn số lượng phốt-pho sẵn có trong khẩu phần, khiến cho việc tiêu hóa và tận dụng của chúng có hiệu quả hay không.

    Minh họa tốt nhất cho sự quan trọng này là một trích dẫn từ Morris Brock, Chủ tịch công ty United Nutritional Services, công bố trong bài phát biểu trước Northwest Thoroughbred Breeders Association [Hiệp Hội Các Nhà Lai Tạo Ngựa Thuần Tây Bắc]: “Phốt-pho có lẽ là khoáng chất quan trọng nhất, bởi nếu chỉ hơi thiếu trong khẩu phần, vật nuôi không thể tận dụng tối đa thức ăn, vitamin và khoáng chất khác, dù nhiều đến mấy. Nhưng phốt-pho còn ảnh hưởng xa hơn nữa. Nó nhất định tham gia vào sự phát triển của mọi tế bào, xương, cơ, thần kinh và các tuyến (gland) ở vật nuôi. Trên thực tế, trong từng mô tế bào vốn vận hành để giữ cho vật nuôi được khỏe mạnh, thì phốt-pho chính là bộ phận đánh lửa (spark plug).

    Theo kinh nghiệm của tôi trong việc dùng gà Aseel và Aseel pha như là vật thí nghiệm vào việc phát triển giải pháp thức ăn chứa phốt-pho dành riêng cho vật nuôi của chúng tôi tại công ty Feed Services Inc., tôi sẽ không loại bỏ bất kỳ dòng mái nào hay coi dòng đó là “không sinh lợi” (non-productive) nhất là một dòng cận huyết cho tới khi tôi chắc chắn rằng mái và trống giống dùng một khẩu phần cân bằng đầy đủ phốt-pho khi mái đẻ và khẩu phần đó được duy trì cho đến khi gà con trưởng thành. Khỏi phải nói một khẩu phần cân bằng đầy đủ phốt-pho quan trọng đến đâu trong bất kỳ bài biệt dưỡng để chuẩn bị đá trường nào. Trước đây, người ta tin rằng gà cần bổ sung ít phốt-pho hơn các loại vật nuôi khác bởi lượng lớn hạt trong khẩu phần thông thường của chúng được coi là giàu phytin phosphorus. Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy gà cực nhạy với phốt-pho và thậm chí thể hiện ra ngoài ở một liều lượng nhất định trong việc bổ sung phốt-pho.

    Có lẽ đó là vì phytin phosphorus không còn như trước đây khi cuốn Feeds And Feeding của Morrison, kinh sách của các nhà chăn nuôi, được xuất bản vào những năm 30. Đất đai đã suy kiệt kể từ đó và giá nông sản không biện hộ cho việc duy trì hàm lượng 300# phốt-pho ở lớp đất bề mặt trên mỗi arce [0.4 hec-ta] thuộc chu trình sản xuất lương thực mà theo đó các mẫu (sample) của Morrison dựa vào. Phốt-pho gắn liền với đất đai và không được tái bổ sung thông qua hoạt động tưới tiêu và cấp nước như những thành phần chủ chốt khác, ni-tơ và ka-li. Không hề có hai bao hạt, thậm chí từ cùng một cánh đồng, cho ra cùng hàm lượng phốt-pho trong hầu hết các thử nghiệm của chúng tôi.

    Các nhà sản xuất viên thức ăn (livestock pellet formulators) hạn chế liều lượng của những nguồn phốt-pho hoạt tính mạnh nhất mà họ có thể dùng bởi vì chúng cực kỳ ăn mòn đối với thiết bị của họ.

    Dicalcium phosphate [CaHPO4] và vỏ sò là nguồn phốt-pho cho gia cầm nhưng đó không phải lời giải của vấn đề, vì chúng cũng làm thay đổi lượng can-xi trong khẩu phần và chúng tương đối khó kiểm soát để đưa vào [cơ thể] bởi là khoáng chất bổ sung gần như khô.

    Điều đầu tiên bạn làm khi cân bằng bất cứ khẩu phần thức ăn nào là cân bằng tỷ lệ can-xi–phốt-pho và hàm lượng trong toàn bộ khẩu phần. Chúng tôi nhận thấy đây là vấn đề hàng đầu trong toàn bộ vấn đề về khẩu phần mà chúng tôi từng thử nghiệm. Những phụ gia thực phẩm chứa vitamin và khoáng chất khác không hoạt động cho tới khi vấn đề được giải quyết. Hầu hết chất bổ vitamin trên thị trường thậm chí không giải quyết vấn đề hàng đầu này, mà một số còn làm khẩu phần thêm mất cân bằng.

    Một ví dụ tốt về việc này là khi chúng tôi được yêu cầu kiểm tra nhóm ngựa thuần một mùa [yearling, một đến hai năm tuổi] ở trại M.C. Shelley Ranch vốn được điều trị bệnh viêm đầu xương (epiphysitis). Chúng đã được chẩn đoán thiếu can-xi – một nguyên nhân gây bệnh thông thường. Chúng tôi tìm thấy cỏ linh lăng (alfalfa) trong khẩu phần theo [tỷ lệ] 14 phần can-xi trên 1 phần phốt-pho. Với hạt là tỷ lệ bốn trên một can-xi–phốt-pho. Chúng đang không kiếm đủ phốt-pho để khai thác cả đống can-xi trong khẩu phần. Liều chỉ định theo [nhãn thuốc] Mare & Foal Feed Solution của chúng tôi chữa lành bệnh này trong vòng một tháng. Một con trong nhóm ngựa một mùa này là Fleet Rage, chiến thắng nhiều giải và kỷ lục gia ở đường đua California.

    Gà Aseel được dùng trong nhóm thí nghiệm nhằm phát triển công thức Mare & Foal Feed Solution phải nhận được phần lớn danh tiếng cho thành công của nó. Liều lượng chỉ định của một nguồn phốt-pho hoạt tính mạnh không thể được thử nghiệm mà thiếu chúng. Chuột hay chuột nhắt không chịu ăn khẩu phần phốt-pho vượt quá giới hạn nhưng hạn chế về vị giác hay khứu giác của Aseel lại là vé thông hành.

    Những con Aseel gốc của tôi từ Dr. Barrick từng được sử dụng trong dự án nghiên cứu khác vốn là di truyền sinh học trong tự nhiên. Khi tôi còn là một thiếu niên, Dr. Barrick sống ở cùng khu phố. Hồi đó ông ta đã hơn 70 và là một lãnh đạo về hưu của State Veterinarian Board [Hội Đồng Thú Y Bang].

    Tôi ngồi hàng giờ tại bàn bếp của ông lắng nghe những câu chuyện về gà Aseel. Ông bảo tôi rằng giá trị của chúng đối với vật nuôi như là “ruồi giấm“ đối với các nghiên cứu di truyền khác bởi chúng là những vật nuôi lâu đời nhất từng được thuần dưỡng và lai tạo theo một tiêu chuẩn mẫu mực về giống [breed standard of perfection]. Mọi phương pháp lai tạo – pha, cận huyết hay lai dòng đều đã được thử nghiệm trên gà Aseel cả 3000 năm trước khi chúng được dùng vào việc phát triển những giống vật nuôi thuần khác (có lẽ kể cả người).

    Đặc điểm quan trọng của giống gà Aseel theo Dr. Barrick đó là chúng tiến hóa trong tình trạng thuần dưỡng mà không có sự trợ giúp của việc chủng ngừa hay điều trị kháng sinh trong một thời gian dài hơn bất kỳ giống hay loài được sử dụng như vật nuôi hoặc thú cưng nào khác.

    Ông nói rằng dịch Bại Liệt Gà Miền Tây (Western Fowl Paralysis) vốn tiêu diệt gần hết số gia cầm ở Mỹ vào những năm 20 và 30 đã không ảnh hưởng đến một số sân gà với [tỷ lệ] máu Aseel nhất định.

    Ông dành nhiều năm trời nghiên cứu lý thuyết rằng máu Aseel được cản xuống thậm chí còn 1/64 ở một dòng sẽ khiến nó miễn dịch hay đề kháng mạnh với những bệnh nhất định. Nhiều bầy thử nghiệm như thế này đã thâm nhập vào huyết thống của các giống gà thịt ngày nay và thậm chí một số giống gà đẻ nữa.

    Ông bảo tôi rằng ông đã từng thử nghiệm mọi dòng Aseel mà mình biết vốn sẵn có để nhập khẩu từ Ấn Độ hay Anh hay từ những nhà lai tạo Aseel Mỹ giỏi nhất cũng như gà Phương Đông Nhật Bản. Tôi nhớ mình từng thấy những con Shamo, Tuzo và Chibi Jap tốt nhất ở chỗ ông.

    Quy trình của Dr. Barrick là cản hàng nhập thuần ở chỗ mình hay từ một vài nhà lai tạo chọn lọc tham gia vào nghiên cứu. Các trống con được đưa vào những bầy gà bệnh (inflicted flock) nơi mà dữ liệu từ đám hậu duệ được thu thập về [khía cạnh] đề kháng hay miễn dịch với bệnh. Nghiên cứu được tiếp tục qua các thế hệ sau của đám gà pha bậc Phương Đông này để tìm hiểu bản chất trội hay lặn về miễn dịch di truyền.

    Thậm chí vào những năm 50 khi tôi tham gia nghiên cứu với Dr. Barrick và sau này với Dr. Tanner và Jim Gates trong hợp tác với các Khoa Mở (Extension Agencies) của U of I [Đại học Idaho] và U of U [Đại học Utah], hầu hết mỗi trang trại, khu vực (acreage) hay lô đất lớn ở thành phố đều có bầy gà riêng của mình. Đồng hành cùng các bầy lai thử nghiệm này với những kê nhân năng lực và quyết tâm là những trang trại gia đình nhỏ ở Idaho, Utah và Nevada. Chúng tôi nhập khẩu một dòng gà Aseel khác từ Lucknow, Ấn Độ để dùng vào các thử nghiệm tại thời điểm đó.

    Thành công của các bầy pha Aseel từ Ấn Độ được áp dụng vào ngành công nghiệp [chăn nuôi] gia súc với sự ra đời của giống bò Brahma ở ngành này. Giống bò King Ranchs Santa Gertrudis được ghép máu bò Ấn Độ ở những mức độ khác nhau (at levels) bước đầu thử nghiệm hầu như hưởng lợi từ việc pha Aseel ở gà.

    Từ những năm 1940, quần thể Aseel thuần của thế giới đã suy giảm đến cấp độ “loài nguy cấp“ (endangered species). Có ba nguyên nhân chính: (1) Sự ra đời của T.V. ở Ấn Độ đã thay thế trò chọi gà trong quá khứ. Gà không còn được phát triển theo tiêu chuẩn mẫu mực của Dora Dirza [đá cựa băng] với số lượng đáng kể để duy trì “giống cũ”. (2) Thử nghiệm ráo riết. Tiến bộ to lớn trong việc phát triển các liệu pháp hóa sinh trên các bệnh vi khuẩn và virus của gà chẳng hạn như những loại kháng sinh và vắc-xin hiệu nghiệm dường như là lời giải cho mọi vấn đề. Giải pháp tự nhiên (biogenics) bị đặt qua một bên (on the back burner). Kế hoạch khả thi về kinh tế duy nhất nhằm lưu giữ những phẩm chất là sản xuất trống giống để bán cho các bang hay quốc gia chọi gà [bỏ qua ty thể]. (3) Có một câu hỏi về tính hợp pháp của việc chăn nuôi “gà chọi” cho bất kỳ mục đích nào ở một số bang. Họ có thế hối tiếc về quyết định đó.

    Bây giờ vào những năm 90, có xu hướng hay thay đổi khác xảy ra khiến cho phát biểu của Dr. Barrick về giá trị của gà Aseel vốn được lai tạo theo một tiêu chuẩn mẫu mực khắt khe lâu hơn bất kỳ giống gà hay vật nuôi nào khác trong tình trạng thuần dưỡng mà không có liệu pháp kháng sinh hay chủng ngừa, dường như là một lời tiên đoán.

    FDA [Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ] đang từ hạn chế đến cấm đoán nhiều [sản phẩm] hóa sinh vốn giữ cho các đàn gà công nghiệp lớn sinh sôi. Và, nhu cầu của công chúng về thịt và trứng gia cầm “thả vườn” (farm raised) là nhiều hơn. Cả hai đều có hàm lượng cholesterol thấp.

    Khi mà 92% dân số nước ta tiêu thụ thịt và trứng gà – thì đó là một mặt hàng khổng lồ cho nhu cầu sắp tới.

    Ở một hạt (county) nơi tôi đang thử nghiệm, một bầy gồm ba dòng Aseel và các bầy pha của chúng nhằm đề kháng với CRD, và/hay miễn dịch ưu trội (dominant immunity). Nhiều hoạt động chăn nuôi gà tây (turkey) đã bị phá sản trong hai năm vừa qua. Họ không thể thu hoạch những con gà từng được điều trị khuẩn MG, nhưng chúng sẽ chết nếu không được chữa trị.

    Chủng CRD Mycoplasma gallisepticum (MG) hoành hành tại khu vực đó cũng như ở chỗ tôi vốn là một trại gà tây hoang dã trước khi tôi mua nó. Trong bốn năm thử nghiệm, dòng Aseel McCoy ngực vẹo cũ, mà tôi đã đề cập trước đây về các bầy pha của nó, không hề sinh ra một con vốn thể hiện bất kỳ triệu chứng CRD [viêm đường hô hấp mãn tính] – hay Leukosis [máu trắng] hay Marek [liệt đồng] về khía cạnh đó, ở hai năm tuổi mà không tiêm chủng, kháng sinh, hay bất kỳ điều trị hóa chất nào khác ngoài việc kiểm soát ký sinh.

    Có lẽ những phẩm chất này ở gà Aseel sẽ được coi trọng trong tương lai thật gần trước khi chúng bị tuyệt chủng.


    =========================================================


    Ghi chú

    *Bài viết này mình dịch cùng với bạn NoWhere Guy (facebook).

    *Đây là gợi ý hay với các sư kê cản gà và trên thực tế họ vẫn làm theo cách này, từc dùng mái nòi Việt cản với trống Mỹ, tự nhiên bầy con sẽ có khả năng kháng bệnh cao hơn. Nhưng cá nhân mình vẫn thích dùng mái Mỹ để lấy tốc độ!

    *Một bài viết liên quan: Ty thể và dòng mái (North Briton)
     
    Last edited by a moderator: 5/3/16
  2. bettabl

    bettabl Active Member

    Vậy gà asil và gà Việt có liên quan huyết thống gì không anh.
     
  3. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Có chứ em, theo những tài liệu mới (của các nhà khoa học Phương Tây) mà anh biết thì con gà là do người Việt mình thuần hóa trước tiên, cách nay 10 ngàn năm rồi sau đó mới lan ra toàn thế giới. Những trung tâm lâu đời khác là Ấn Độ (4 ngàn năm) rồi mới đến Ai Cập và Trung Hoa (hơn 3 ngàn năm)!

    Vì vậy, gà nòi là một trong những giống gà chọi lâu đời nếu không muốn nói là lâu nhất. Nó có thể là nguồn gốc của mọi giống gà Phương Đông ngày nay, kể cả Asil.
     

Chia sẻ trang này