Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Quan Sát Một Loại Betta splendens Khổng Lồ Mới

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá betta - cá cờ' bắt đầu bởi kiatisak, 9/1/08.

  1. kiatisak

    kiatisak Active Member

    Quan Sát Một Loại Betta splendens Khổng Lồ Mới
    Dr. Gene A. Lucas - http://bettysplendens.com/articles/page.imp?articleid=1405

    [​IMG]
    100% Giant Betta so sánh với plakat cỡ thường. (Ảnh Thai Giant Betta)

    [​IMG]
    (Ảnh Thai Giant Betta)

    Ngay khi tôi nghĩ rằng mình đã thấy hết mọi thứ, thì một loại Betta splendens thuần dưỡng nữa lại xuất hiện tại Hội nghị IBC Orlando vào 2002. Chúng được gọi là Giant Betta [Betta Khổng Lồ]. Chúng hấp dẫn với tôi bởi vì hoàn cảnh một trong những hạn chế (drawback) của cá Betta trên phương diện cá cảnh đó là chúng không to lắm. Có một nhất trí chung rằng, nếu mọi thứ khác là như nhau, thì kích thước lớn hơn sẽ chiếm ưu thế khi đánh giá Betta và tôi tin rằng điều đó được công bố trong tiêu chuẩn đánh giá IBC.

    Khỏi cần phải hỏi rằng cá to hơn lấn át thú chơi toàn thế giới và rằng điều đó đã diễn ra từ lâu. Thú chơi thực sự bắt đầu với việc nuôi cá chép màu (Cá Vàng và Koi), cả hai là những loài vốn có thể tăng trưởng đến kích thước lớn, và cả hai vẫn phổ biến nhất ở một số khu vực. Những loài phổ biến khác, đặc biệt ở Phương Đông, là Cá Rồng (Cá Rồng Châu Á), cá Dĩa và những loài Cichlid khác bao gồm thứ được gọi là “cá La Hán” (Flower Horn), vốn là lai tạp (hybrid) của một số loài cichlid châu Mỹ. Cả cá Dĩa lẫn La Hán đều đang được sản xuất với số lượng biến thể màu sắc tăng đều đặn.

    Việc thu được Betta lớn hơn ở cá thuần dưỡng là không mới. Hầu hết các dòng cá đều trở nên to hơn theo thời gian. Tôi quy điều này cho việc tuyển chọn vô tình hay hữu ý theo kích thước lớn hơn và dĩ nhiên việc chăm sóc tốt hơn và khẩu phần được cải thiện. Chúng ta dễ dàng nhận thấy sự phát triển về kích thước vốn xảy ra ở người. Hãy nhìn những thanh niên của chúng ta, đặc biệt là những cầu thủ bóng rổ và bóng bầu dục. Tôi không nghĩ là đội bóng cao đẳng của mình có bất kỳ ai cao hơn 6 foot 3 [~191 cm], và nếu họ có cầu thủ 6 foot 9 [~206 cm] hay 10 [~208 cm] thì anh ta là to con. Một người cao 7 foot [~213 cm] vào những năm 50 là không tưởng. Ngày nay, hầu hết các đội bóng rổ đều có vài người cao đến 6 foot 9 hay 7 foot. Tôi chỉ cao dưới 6 feet [~183 cm] và tôi có thể đi bộ trên đường hay tiệm bán lẻ và thường xuyên gặp những phụ nữ trẻ vốn cao hơn mình. Tôi chắc là tất cả các bạn đều thấy điều tương tự. Ngược lại, hầu hết chúng ta có thể nhìn vào cha mẹ và ông bà, đa số họ đều nhỏ hơn chúng ta.

    Kích thước ở các cầu thủ bóng bầu dục là đương nhiên. Một tay sáu foot bảy inch [~200.66 cm], 325 pound [~147 kg] người có thể chạy vào những năm 50 từng là ước mơ của các huấn luyện viên bóng bầu dục, nhưng ngày nay hầu hết huấn luyện viên đều có đến nửa tá hay hơn những cầu thủ loại đó. Những đội chuyên nghiệp, hầu hết những đội cao đẳng và thậm chí một số đội trung học có lẽ dàn toàn bộ hàng tấn công (offensive lines) bằng những tay nặng 300 pound [~136 kg].

    Nhưng đây không phải là về người cao to.

    Vấn đề ở đây là điều nào đó hay sự kết hợp của những điều nào đó trong đời sống của chúng ta ngày nay hỗ trợ cho sự tăng trưởng vượt bậc và không có gì lạ khi điều tương tự xảy ra với những loài thuần dưỡng khác, bao gồm loài cá của chúng ta. Ở Betta, có mối liên hệ rõ ràng với những điều như vậy chẳng hạn chất lượng môi trường và siêu khẩu phần. Những người vốn sản xuất cá lớn hơn sẽ phát hiện việc thay nước thường xuyên và thường xử lí nó bằng nhiều cách, chẳng hạn như lọc thẩm thấu ngược (reverse osmosis), bổ sung chất đệm (buffer) để duy trì pH ổn định độ hơn, bổ sung muối hay sản phẩm để kiểm soát hợp chất ammonia, hay bất kỳ thứ gì. Họ cũng nỗ lực hơn để cho ăn đủ loại thực phẩm, đặc biệt là đồ tươi sống, vốn có thể bao gồm việc nuôi trùn trắng (whiteworm) hay atermia hay hành trình thường lệ tới các cửa hàng cá mua atermia, trùn kiếng (glassworm), hay trùn đen (blackworm) tươi sống. Những nỗ lực như thế này giữ cá trong tình trạng sức khỏe sung mãn hơn và đáp ứng những gì mà chúng cần để tăng trưởng tốt nhất.

    Giant Betta là gì?

    Tôi giả sử không mấy độc giả có dịp thấy những con Betta này. Tôi chưa từng thấy hoặc nghe bất kỳ con nào xuất hiện ngoài tiệm cá nhưng chúng được rao bán (nhỏ giọt) trên AquaBid .Theo tôi biết thì không con nào được rao bán bởi các thành viên IBC. Những con ở Hội nghị IBC được mang đấu giá với mức giá (bid) tối thiểu 100 đô-la. Tôi không nhớ những ai đặt giá mua chúng nhưng tôi và một người nữa, mỗi người mua một con với giá tối thiểu.

    Theo tôi nhớ, những con Betta này tham dự lớp biến dị màu sắc và hình dạng; mặc dù chúng có nhiều loại màu khác nhau, chúng chỉ thể hiện một số màu đã biết. Có loại nền sẫm và cambodian, xanh dương, xanh lục, vài con non-red (vàng), đen, đỏ .v.v. Có một số với hoa văn Bướm (nửa ngoài vây một màu và phần còn lại màu khác). Tôi nhớ rõ một con Bướm xanh dương và đen, toàn thể bộ sưu tập với mười lăm hay hai mươi cá thể là một đống màu sắc thường thấy ở cá Betta thuần dưỡng hiện đại.

    Đặc điểm rõ ràng nhất của Giant Betta là kích thước của chúng. Con của tôi được đặt biệt hiệu là “Bubba” [đại ca], vốn dường như rất hợp. Hình ảnh không thể giúp hình dung kích thước trừ phi chúng được đặt cùng dụng cụ đo đạc [thước] để so sánh mà tôi chưa thấy ai làm cách này. Ở đây, tôi đang cung cấp một phác họa thể hiện sự khác biệt tương đối giữa các ví dụ điển hình về cá hoang dã, cá thuần dưỡng với kích thước bình thường và Giant Betta mà tôi có, mà chúng dường như điển hình (typical) cho những con ở Triển lãm IBC.

    Bởi vì đuôi (caudal fin) biến thiên theo chiều dài (tỷ lệ với thân) nên tôi đo chiều dài thân từ chóp miệng đến gốc đuôi (được gọi là chiều dài chuẩn bởi các nhà ngư loại học) trên ba con Betta kích thước-trung bình lấy từ ba nhóm khác nhau để so sánh. Tôi sử dụng cá hoang dã điển hình cho những con mà chúng tôi lấy từ Malaysia và Việt Nam (tôi nghi ngờ những con được thu thập từ nhiều vùng khác nhau ở Thái Lan bởi vì chúng thường thể hiện biến dị màu thuần dưỡng và có lẽ là cá sổng, cá thả hay cá lai từ hàng thuần dưỡng). Tôi sử dụng một con kích thước-trung bình từ phòng cá của mình làm đại diện cho cá thuần dưỡng và tôi sử dụng Bubba như là ví dụ về Giant Betta vì tôi thấy nó là điển hình của chúng. Kết quả đo đạc như sau:

    Cá hoang dã: 3.2 cm (gần 1-1/4 inch)

    Cá thuần dưỡng: 3.7 cm (gần 1-1/2 inch)

    Cá Khổng Lồ (Giant): 6.6 cm (gần 2-5/8 inch)

    Trong khi sự khác biệt về chiều dài giữa cá hoang dã và Betta thuần dưỡng “bình thường” là có hạn, thì khác biệt giữa chúng với cá Giant là đáng kể. Betta thuần dưỡng dài gấp 1.156 lần, và cá Giant dài gấp 2.06 lần cá hoang dã; tức hơn gấp đôi.

    Một thông số khác vốn có thể được dùng để so sánh kích thước là trọng lượng. Tôi đã cân chúng bằng loại cân ba tia (tripple beam balance) phòng thí nghiệm và thu được kết quả như sau:

    Cá hoang dã :1.2 gam

    Cá thuần dưỡng: 1.95 gam

    Cá Khổng Lồ (Giant): 8.85 gam

    Khác biệt về trọng lượng hơi nhiều hơn. Betta thuần dưỡng nặng gấp 1.625 lần cá hoang dã và Giant nặng hơn nhiều, 7.735 lần. Dĩ nhiên, có sự khác biệt về tỷ trọng tổng mô (total tissue density) của mỗi con tuỳ vào sự hiện diện (và thể loại) hay thiếu vắng của thức ăn trong ruột, lượng “không gian” ở bóng bơi (gas bladder), lượng mỡ tương đối với cơ bắp và vân vân. Cũng vậy, khi cả con được cân, vây cũng được tính và lượng vây của mỗi con không nhất thiết phải tỷ lệ [với trọng lượng].

    Tôi cũng thử đo thể tích của mỗi con bằng cách thả chúng vào xy lanh có thang đo (graduated cylinders) và cố gắng đọc trị số nước bị chiếm chỗ nhưng vì thể tích nhỏ đòi hỏi phải giữa yên cá nên không đọc được. Tôi biết rằng mỗi phương pháp ở đây đều có sai số, nhưng dẫu sao bạn thấy đó, nó đủ rõ rằng Giant Betta lớn hơn đáng kể so với cá bình thường.

    Di truyền của Giant Betta?

    Tôi mua Bubba chủ yếu để cản với những mái mà tôi có ở nhà trong phòng cá của mình vốn dường như đủ lớn để tôi hy vọng thu được những bầy từ chúng. Tôi có nhiều mái mà mình giữ lại từ một bầy vốn té ra cá lớn bất thường, mặc dù chúng vẫn nhỏ hơn nhiều so với nó. Tôi thu được hai bầy từ cá đực này chỉ sau hai lần ép. Cả hai bầy đều có rất nhiều cá bột. Việc hạn chế không gian ngăn cản tôi cản thêm những bầy khác. Thậm chí sau khi hao hụt và cho đi một số, tôi thu được số lượng thực sự với 732 cá con trưởng thành từ một trong các bầy – đến nay, bầy lớn nhất mà tôi từng nuôi.

    Một bầy là với mái đuôi kép cambodian với rất ít màu ánh kim. Nó có số lượng cá bột lớn nhưng không may chúng bị nhiễm nặng nấm nhung (velvet) ở khoảng một tuần tuổi và chết hết. Chúng còn quá nhỏ để đánh giá về bất kỳ mặt nào vì vậy tôi không có cơ hội để tìm hiểu về di truyền của những tính trạng tiêu chuẩn hay bất kỳ tính trạng mới nào, đặc biệt là trường hợp Giant với cá kích thước-bình thường.

    Tôi gặp may hơn với bầy khác. Cá mái thứ hai là đa sắc xanh/đỏ từ một dòng đuôi dài. Nàng là hậu duệ từ nhiều bầy pha, dẫn về một trống xanh thép vây-thật to mà tôi mua từ một cuộc đấu giá với một mái đuôi kép xanh thép từ một bầy của riêng tôi, vốn bắt nguồn từ một trống đen chất lượng triển lãm của thành viên IBC Dan Young với mái đuôi kép vàng chất lượng triển lãm mà tôi mua từ cuộc đấu giá khác. Tôi không có dữ liệu nền tảng về cá đấu giá nhưng kiểu hình của chúng cho tôi với vây dài, đuôi kép, đỏ lan (extended) và non-red, xanh thép, cambodian và cả hai, phân bố ánh kim lan (spread) và hạn chế (limited).

    Bubba là (nó có từ khi được chuyển giao) cá đa sắc xanh lục vây-ngắn với vàng (non-red) thay thế đỏ. Hai bầy cá cung cấp cho tôi nhiều tính trạng mà tôi có thể khảo sát. Bổ sung vào tính trạng Giant với ít nhiều kích thước thuần dưỡng bình thường, có loại vây dài với vây ngắn (bình thường), màu ánh kim xanh dương với xanh lục (bình thường), ánh kim lan với hạn chế (bình thường), và non-red (vàng) với đỏ (bình thường). Mặc dù hai bên cha mẹ đều nền sẫm, bầy cá cũng bao gồm những con nền nhạt (cambodian) chứng tỏ hai bên cha mẹ đều mang gien lặn.

    Những gì mà tôi thu được từ bầy này là hoàn toàn có thể dự đoán. Chúng có xu hướng (ở khoảng sáu tháng tuổi) đạt kích thước trung bình của Betta thuần dưỡng mặc dù một số hơi lớn hơn. Vào lúc này, không con nào tiến gần kích thước của cha mình. Tôi được bảo rằng cá Giant có xu hướng tăng trưởng khi chúng già hơn nhưng đấy là điều mà tôi phải đợi để xem. Tất cả trống đều có vây dài (một tính trạng trội từ mẹ chúng) mặc dù đuôi không lớn bằng những con trong dòng dõi của mẹ. Tính trạng này không tự bộc lộ ở cá mái. Không có con đuôi kép nào.

    Những gì tôi thu được từ bầy này là các loại mảng màu vô cùng thú vị. Hầu hết chúng đều có thể được dự đoán từ màu sắc và kiểu gien xác định (determinable) của hai bên cha mẹ nhưng có một số mà tôi không thể. Mặc dù tôi không thử phân loại chúng, tôi có thể tóm tắt những gì ở đó “bằng mắt”. Tôi nghĩ cách dễ nhất để làm điều này là xem xét mỗi yếu tố màu (color element) một cách riêng rẽ, vì vậy số lượng và sự đa dạng về biến thể của chúng có thể được lĩnh hội tốt hơn.

    1. Hậu duệ giả sử có 50% (mỗi giới) là trống hay mái. Chúng ta không thể phát hiện các trống dị giao tử (heterogametic) [1] trong một số nghiên cứu kiểu nhân (karyotype study) [2] và những bầy có thể khác xa tỉ lệ giới tính 1:1 vì vậy mong đợi này không nhất thiết phải đúng (valid). Việc xác định giới tính sau cùng có thể phụ thuộc vào một số ảnh hưởng bên ngoài. Sự chuyển giới từ mái sang trống cũng xảy ra hầu như thường xuyên.

    2. Tất cả trống hậu duệ (progeny) từ bầy này đều có vây lớn nhưng mang gien vây ngắn từ cha của chúng. Nếu cá mái (mẹ chúng) mang nó, thì một nửa hậu duệ phải có vây ngắn và không con nào như vậy.

    3. Màu ánh kim của cá trống là xanh lục và cá mái là xanh dương điều có nghĩa rằng một nửa hậu duệ phải là xanh dương và một nửa là xanh lục (xanh dương là dị hợp). Đó là những gì đã xảy ra.

    4. Sự lan tỏa (spread) của màu ánh kim ở hai bên cha mẹ là trung bình. Biến dị lan (variation of spread) là hoàn toàn liên tục (continuous) nhưng có thể xem như nó xảy ra ở ba lớp: mật độ dày đặc (heavy), trung bình (medium) và hạn chế (limited). Điều kiện chăm sóc của cha mẹ phải cung cấp cho cả ba loại ở bầy hậu duệ và nó [cá cha] đã làm.

    5. Hai bên cha mẹ là nền sẫm nhưng đều mang gien cambodian cho nền nhạt. Điều này được chứng tỏ bởi sự xuất hiện của những hậu duệ nền nhạt trong bầy. Bởi vì nó đơn giản là tính trạng lặn, 25% là mong đợi theo lý thuyết về cá nền nhạt ở đây và đó dường như là điều mà tôi có.

    6. Cá mái thể hiện đỏ nhưng cá trống là vàng (non-red). Sự xuất hiện của khoảng một nửa hậu duệ non-red cho thấy rằng mái mang gien non-red (hiện diện của bất kỳ con nào đều cần nó). Tất cả hậu duệ đều có tối thiểu một gien non-red từ cha của chúng.

    7. Tôi thu được vài cá thể thuộc loại mà tôi gọi là “Muối Tiêu” (Grizzled) nhưng tôi thật sự không thể tìm ra mẫu thức di truyền khả dĩ cho chúng. Những cá này có đốm nhỏ hơn rải rác khắp nơi với vài đốm hơi lớn hơn. Chúng có lẽ là một phiên bản cẩm thạch (marble) nhưng không có cá hoa văn cẩm thạch khác xuất hiện trong bầy này.

    8. Mặc dù không có con đuôi kép nào xuất hiện trong bầy, cá mái có thể mang nó như một gien lặn (qua dòng dõi của mình). Nếu có, nàng sẽ chuyển giao nó cho một nửa hậu duệ mà chúng, nếu bất kỳ con nào trong số đó cản với con khác vốn mang nó, có thể tái tạo tính trạng đuôi kép.

    9. Hành vi không được xem xét đến trong bầy nhưng có sự khác biệt hoàn toàn về mức độ hung dữ ở những dòng Betta thuần dưỡng khác nhau, vì vậy điều đó có thể xảy ra. Bubba dường như là một phiên bản lớn hơn của cá Betta đuôi-ngắn thuần dưỡng, được dùng để đá ở Phương Đông. Tuy nhiên, nó không hung dữ thái quá và cá mái là loại Betta cảnh thuần dưỡng điển hình. Chúng sinh sản ngay lập tức và không gặp sự cố gì.

    Thảo luận

    Bộ sưu tập những tính trạng biến thiên này (ở hai cặp cha mẹ) chứa đựng tiềm năng di truyền để tạo ra một dãy pha tạp (bewildering array) của kiểu gien và kiểu hình trong bầy. Trước đây khi tôi đề cập đến một “mảng màu thú vị”, đó là nhờ tiềm năng này. Hãy nghĩ về mọi khả năng khác nhau. Chúng phân bố ở cả cá nền nhạt lẫn nền sẫm với hầu như không màu ánh kim qua những biến dị đủ loại của thứ mà chúng ta gọi là đa sắc xanh dương và xanh lục (với đỏ hay vàng như màu phụ) đến xanh dương và xanh lục đơn sắc nền nhạt hay sẫm.

    Để lấy một ví dụ, tôi có một vài con green pastel rất đẹp. Để thu được một trong số đó, tôi cần phải có một kiểu gien vốn cung cấp màu ánh kim lan xanh lục dày đặc (heavy), nền nhạt và non red. (Ở đây, tôi không quan tâm tới các biến dị về loại vây, kích thước thân hay những biến dị khả dĩ khác).

    Bởi cách thức di truyền của mỗi yếu tố phụ trong một kiểu hình, nên chúng [các yếu tố phụ này] không xuất hiện với cùng số lượng. Chúng ta có thể thực hành một chút bằng việc sử dụng xác xuất (probabilities) để dự đoán khả năng thu được một loại nhất định. Lấy green pastel làm ví dụ, nó sẽ như sau: một phần tư được mong đợi là nền nhạt (light bodied), một nửa xanh lục, một phần tư ánh kim lan và một nửa non red. Sản phẩm của những yếu tố này [green pastel] là 1 phần 64. Tôi đã cung cấp một biểu đồ vốn thể hiện các khả năng khác nhau (xem Hình 2).

    Mặc dù Giant Betta to lớn, những con vây dài dường như không có kích thước vây lớn hơn theo tỷ lệ với thân mà chúng ta thấy ở Betta kích thước-bình thường. Tôi không chắc nếu có bất kỳ ý nghĩa nào cho việc này nhưng nó gợi lên những câu hỏi trong đầu tôi. Tôi tự hỏi phải chăng chúng là kết quả của việc xử lý hormon nào đó. Số mẫu là ít ỏi vì vậy tôi thừa nhận rằng một vài trống vây dài có lẽ không đại diện cho loại. Tôi từng thấy điều tương tự ở Betta bình thường. Dẫu vậy, tôi muốn thấy vài con vốn sở hữu bộ vây đầy đặn của Betta cảnh kích thước-bình thường đẹp nhất của chúng ta.

    Có phải Giant Betta là có thật? Ý tôi chúng có phải là kiểu di truyền đích thực? Có gien Giant Betta không? Có phải chúng là kết quả của việc chọn lọc lâu dài và cẩn trọng hay là kết quả của vài loại kích thích tăng trưởng hóa học nào đó! Chúng ta có thể mong để thấy sự gia tăng đáng kể về kích thước ở Betta cảnh của mình? Nếu vậy, chúng có sắp sửa được “cộng đồng” Betta chấp nhận không? Đây là tất cả những câu hỏi mà tôi chưa thể trả lời. Tôi hy vọng có thể nói nhiều hơn sau khi tôi thu được kết quả của các thử nghiệm lai tạo nữa và sau khi tôi có thể tìm hiểu thêm về ai đã tạo ra chúng và như thế nào.


    Source: FAMA Magazine
    April 2003
    Vol. 26 - No. 4 - Pg. 94

    Column Article
    BETTAS...AND MORE
    By Gene A. Lucas, Ph.D.

    E-Mail: g.a.lucas@worldnet.att.com


    ================================


    Ghi chú (Thaicodon)

    1
    - Heterogamete: hetero = dị, gamete = giao tử, heterogamete = dị giao tử (tức tế bào sinh dục khác nhau). Tuỳ theo sinh vật mà giao tử này có thể gọi là tinh trùng, trứng, giao tử đực, giao tử cái. Ví dụ, ở người, giao tử có thể hiểu là tinh trùng và trứng.

    2 - Karyotype: karyo = nhân tế bào, type = kiểu, karyotype = kiểu nhân. Người ta phân biệt tế bào giữa các sinh vật thông qua số lượng và hình dạng nhiễm sắc thể (chromosome). Vậy kiểu nhân = kiểu nhiễm sắc thể chứa trong nhân (gồm hình dạng + kích thước + số lượng).
     
    Last edited by a moderator: 17/10/17
  2. nlkhanh

    nlkhanh Moderator

    Rất cám ơn Kiatisak về bài dịch này
    Đơn vị tính của VN mình khác với bên Mỹ bởi dấu chấm (.)và phẩy (,) nên cần chỉnh lại trong bài dịch để tránh hiểu lầm nơi bạn đọc


    Chi tiết trong bài
    Cá khổng lồ: 6,6 cm (gần 2,6 inch)
    Theo mình nghĩ là hoàn toàn chính xác ,vì mình đang nuôi 1 cặp cá khổng lồ,mặc dù rất chăm cho chúng .Nhưng đạt đến kích thước này ,chúng lại không phát triển nhiều được nữa.
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/1/08
  3. QSy

    QSy Moderator

    Cám ơn Sắc nhìu nhìu!!
    Các bác này là chuyên gia về di truyền nên chọn các bài dạng này k à!!!Mình thì...............í ẹ.................hehehehehe
     
  4. langtutv86

    langtutv86 Active Member

    hoi khó hiểu nhưng là dân sinh học nên cũng hiểu. ^^ :D
     
  5. ChuSaChuong

    ChuSaChuong New Member

    Ui, có giống cá bự dzậy trời, kg biết hình dáng của nó thế nào, giống PK hay HM không nhỉ? Bác nlkhanh ơi, bác mua giống này ở đâu thế? chỉ chỗ cho em kiếm vài em về ngâm kíu với. Thank bác nhiều.
     
  6. Son²GoKu

    Son²GoKu Active Member

    ah em nghe nói về cá khổng lồ lâu rồi,mà kg biết VN mình có ai bán cá này kg,đi ra nguyễn thông hỏi người ta đưa cá trưởng thành thôi,kg phải thuộc hàng khổng lồ,ai biết chỉ em,tô chè :D
     
  7. namta

    namta New Member

    Betta khổng lồ (giant) hiện vẫn còn là hàng hiếm ở VN. Theo mình biết nó không có bán ngoài tiệm cá đâu. Trong hội Betta có các bác cedric, nlkhanh, doubletail, anh Tô Minh sở hữu dòng cá này.

    Giant về hình dạng chủng loại sắc màu cũng y chang betta thường, cũng có đuôi dài đuôi ngắn, PK, HMPK ... chỉ khác ở kích thước và kiếm ... hơi bị khó thôi :D
     
  8. Son²GoKu

    Son²GoKu Active Member

    oh,tô chè anh namta,ra ngoài nguyễn thông xém bị dụ :p
     

Chia sẻ trang này